Đây là nội dung Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội trình bày Báo cáo thẩm tra kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2025 và 05 năm 2021-2025; dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2026, tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội Khoá XV.
Nỗ lực bứt phá trong hai năm cuối nhiệm kỳ
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính Phan Văn Mãi khẳng định, Việt Nam đã nỗ lực vượt bậc, đạt kết quả toàn diện, ấn tượng trên hầu hết các lĩnh vực. Dự kiến 22/26 chỉ tiêu giai đoạn 2021 - 2025 hoàn thành và vượt kế hoạch; riêng năm 2024 và 2025 đã hoàn thành 100% (15/15 chỉ tiêu). Điều này thể hiện sự nỗ lực bứt phá trong hai năm cuối nhiệm kỳ, trong đó năm 2025 đạt kết quả toàn diện, nổi bật, tăng trưởng ước đạt 8%, thuộc nhóm cao nhất khu vực; các ngành công nghiệp, dịch vụ, nông nghiệp đều tăng mạnh, duy trì xuất siêu; giữ vững ổn định vĩ mô, lạm phát được kiểm soát, khẳng định sức chống chịu, khả năng thích ứng linh hoạt và hiệu quả điều hành chính sách vĩ mô.
Thể chế được hoàn thiện mạnh mẽ, mô hình chính quyền địa phương 02 cấp được triển khai thực chất, tạo tiền đề cho tinh gọn bộ máy, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản trị.
Liên kết vùng tạo chuyển biến về chất, hình thành chuỗi đô thị, công nghiệp, dịch vụ gắn với kinh tế biển và thí điểm Khu thương mại tự do Đà Nẵng. Hạ tầng chiến lược phát triển bứt phá, đặc biệt là cao tốc.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) giai đoạn 2021 - 2025 chiếm khoảng 16% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, Việt Nam nằm trong nhóm 15 quốc gia thu hút FDI lớn nhất thế giới.
Các chính sách về giáo dục, y tế, văn hóa, xã hội, dân tộc, tôn giáo được triển khai đồng bộ, hiệu quả. An sinh xã hội được bảo đảm, quốc phòng, an ninh được củng cố, đối ngoại đạt nhiều thành tựu nổi bật.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính Phan Văn Mãi cho biết, tình hình kinh tế - xã hội nước ta còn đối diện một số khó khăn, thách thức.
Ủy ban Kinh tế và Tài chính đề nghị quan tâm, lưu ý trong điều hành một số vấn như: Mục tiêu tăng trưởng đang chịu nhiều sức ép trong bối cảnh các động lực chính như xuất khẩu, tiêu dùng và đầu tư chưa thực sự tạo xung lực đủ mạnh. Trong đó: (i) Nền tảng xuất khẩu còn thiếu vững chắc, đang có dấu hiệu chậm lại, phụ thuộc lớn vào khu vực FDI và nguồn cung bên ngoài, trong khi chính sách thuế đối ứng, rào cản kỹ thuật và yêu cầu xanh hóa từ các thị trường lớn gia tăng mạnh; (ii) Quy mô đầu tư công lớn, nhưng tiến độ và hiệu quả giải ngân chưa tương xứng, đến hết tháng 9/2025 đạt khoảng 50% kế hoạch, gây áp lực lớn cho những tháng cuối năm. Một số dự án hạ tầng trọng điểm vẫn gặp khó khăn trong thi công; (iii) Tiêu dùng trong nước, chưa tạo đột phá rõ nét; liên kết giữa tiêu dùng với sản xuất, du lịch còn yếu; tình trạng buôn lậu, hàng giả, gian lận thương mại, đặc biệt trên các sàn thương mại điện tử vẫn phổ biến.
Củng cố năng lực nội sinh và sức chống chịu của nền kinh tế
Về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2026, theo Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính Phan Văn Mãi, Ủy ban cơ bản thống nhất với các định hướng lớn, mục tiêu tổng quát, các chỉ tiêu và 11 nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu theo Báo cáo của Chính phủ.
Để tập trung vào một số vấn đề chính, cốt lõi thực hiện trong năm 2026, Ủy ban Kinh tế và Tài chính nhấn mạnh một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu sau:
Một là, kiên định ổn định kinh tế vĩ mô, giữ vững các cân đối lớn; điều hành linh hoạt, chủ động, thận trọng trong chính sách tài khóa, tiền tệ; bảo đảm an ninh năng lượng, an ninh lương thực, an ninh tài chính quốc gia; quản lý hiệu quả thị trường vàng. Tiếp tục khơi thông dòng vốn, hướng dòng vốn tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên; thực thi hiệu quả chính sách nâng hạng thị trường chứng khoán; xây dựng cơ chế, chính sách thu hút hiệu quả các quỹ đầu tư quốc tế.
Hai là, củng cố năng lực nội sinh và sức chống chịu của nền kinh tế, nâng cao tỷ lệ nội địa hóa và giá trị gia tăng trong nước. Trọng tâm là phát triển các ngành công nghiệp nền tảng, mũi nhọn và mới nổi; thúc đẩy các lĩnh vực công nghệ, năng lượng sạch, xanh, nguyên tử, bán dẫn, không gian vũ trụ, lượng tử… để nâng cao năng suất, sức cạnh tranh và khả năng tự chủ của nền kinh tế. Đồng thời, chú trọng phát triển công nghiệp hỗ trợ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và chuyển đổi năng lượng, hướng tới nền sản xuất hiện đại, bền vững và tự chủ về công nghệ, chuỗi cung ứng.
Ba là, phát triển mạnh thị trường trong nước, kích cầu tiêu dùng và mở rộng xuất khẩu bền vững, coi đây là trụ cột quan trọng giảm thiểu rủi ro bên ngoài. Tận dụng hiệu quả các FTA, mở rộng thị trường, xây dựng thương hiệu quốc gia cho các ngành hàng chủ lực, đáp ứng tiêu chuẩn xanh và truy xuất nguồn gốc, đồng thời tháo gỡ nút thắt logistics, hạ tầng và chi phí vận tải để nâng cao năng lực cạnh tranh và giá trị gia tăng của hàng hóa Việt Nam.
Bốn là, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là trong các ngành khoa học, công nghệ cao và công nghệ nền tảng như điện tử, bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, quản trị thông minh, khoa học cơ bản và các lĩnh vực mới nổi. Đổi mới giáo dục gắn với nhu cầu thị trường, tăng cường liên kết giữa Nhà nước, doanh nghiệp và cơ sở đào tạo; thu hút, trọng dụng nhân tài, xây dựng lực lượng lao động có kỹ năng, kỷ luật và sáng tạo, làm động lực then chốt cho tăng trưởng nhanh và bền vững.
Năm là, tập trung đầu tư hạ tầng chiến lược đồng bộ, hiện đại, thông minh, kết nối quốc gia, quốc tế, nhất là các công trình giao thông trọng điểm, năng lượng, hạ tầng số, logistics, thúc đẩy liên kết vùng. Đẩy nhanh giải ngân, nâng cao hiệu quả đầu tư công, xử lý dứt điểm các dự án tồn đọng kéo dài. Phát triển thực chất các vùng động lực; xây dựng, sớm đưa vào vận hành, phát huy hiệu quả Trung tâm tài chính quốc tế tại Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và các khu thương mại tự do thế hệ mới tại một số địa phương.