Chia sẻ tại phiên tọa đàm cấp cao thuộc khuôn khổ Diễn đàn Kinh tế Xã hội Việt Nam 2022, TS.Võ Trí Thành, nguyên Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) cho biết, việc lựa chọn chính sách tiền tệ và tài khóa trong trạng thái kinh tế lạm phát cao, rủi ro vĩ mô lớn, sản xuất đình trệ, là rất phức tạp, khó khăn và thách thức. Nhà hoạch định chính sách đứng trước cả hai nguy cơ: lạm phát và suy thoái.
Theo TS.Võ Trí Thành, phần lớn các nước đã lựa chọn hy sinh tăng trưởng để kìm hãm lạm phát bằng các biện pháp thắt chặt, tăng lãi suất. Trong tình hình này, Việt Nam đã có lựa chọn khác, vừa thúc đẩy phục hồi, vừa ổn định kinh tế vĩ mô.
Ông Thành cho rằng, lựa chọn này có cơ sở, cuối năm 2021, vị thế tài khóa ngân sách của Việt Nam tương đối tốt, thâm hụt, tỷ lệ nợ công của Việt Nam ở mức khả quan. Do vậy, Việt Nam đã quyết định dựa nhiều vào chính sách tài khóa, ngay cả việc hỗ trợ 2% thuế giá trị gia tăng, nguồn tiền hỗ trợ đều nhờ ngân sách, chưa cần dùng đến chính sách tiền tệ.
"Việc lựa chọn này là hợp lý, do chính sách tài khóa khi ít gây áp lực cho lạm phát hơn, đồng thời cũng có dư địa lớn hơn so với chính sách tiền tệ. Việc tập trung vào chính sách tài khóa cũng đã tạo dư địa cho chính sách tiền tệ để ứng phó với những rủi ro, bất định", TS. Võ Trí Thành nói.
Ông cũng nhấn mạnh kết quả của lựa chọn chính xác này là khi tình hình quốc tế có biến động mạnh, tình hình tài khóa của nước ta vẫn vững vàng, thu ngân sách tám tháng đầu năm tăng cao, chúng ta vẫn tiếp tục thực hiện nới tài khóa, cẩn thận và linh hoạt với chính sách tiền tệ.
Về chính sách tiền tệ, TS.Võ Trí Thành cho rằng con số tăng trưởng tín dụng 14% là hợp lý về cả ngắn hạn lẫn dài hạn. Nếu nới lỏng hơn thì áp lực lên tỷ giá còn lớn, gây áp lực lên lãi suất, tạo nguy cơ chảy máu vốn.
''Tăng trưởng tín dụng của Việt Nam ở mức 14% không phải quá nới lỏng, nhưng cũng không phải thắt chặt, tỷ lệ tín dụng trên GDP là 124%, mức rất rủi ro, nhưng các hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đã tăng vốn để đảm bảo an toàn. Đó sẽ là cơ sở để tính toán mức tăng tín dụng hợp lý'', ông Thành nhận định.
Theo TS.Võ Trí Thành, cần vận dụng chính sách tiền tệ linh hoạt hơn nữa, tập trung vào sản xuất kinh doanh, hạn chế các lĩnh vực rủi ro, kiểm soát chặt chẽ phần đầu tư cho trung, dài hạn, để bổ sung cho một số lĩnh vực kinh doanh phù hợp tùy theo chu kỳ kinh doanh của ngành.
Cũng tại phiên thảo luận, Phó Thống đốc Phạm Thanh Hà cho biết, năm nay, Ngân hàng nhà nước đã tính toán mức tăng trưởng tín dụng hỗ trợ cho phát triển kinh tế khoảng 14%, là mức cao hơn hai năm trước. Trong bối cảnh nhiều biến động và thách thức, Ngân hàng Nhà nước vẫn cố gắng để đạt được mức tăng trưởng cao này và hiện nay đã đạt trên 10% - tăng nhanh so với cùng kỳ các năm trước.
Trả lời về khả năng nới thêm tăng trưởng tín dụng, ông Phạm Thanh Hà cho biết hệ số sử dụng vốn của hệ thống ngân hàng hiện ở mức rất cao, khoảng 100%, nghĩa là đã sử dụng hết vốn huy động để cho vay.
"Nếu nâng tăng trưởng tín dụng thêm vài %, nguy cơ rất lớn ảnh hưởng đến thanh khoản hệ thống, mặt bằng lãi suất lập tức sẽ dâng lên", ông nhấn mạnh.
"Gần đây Moody’s có nâng hạng tín nhiệm của Việt Nam và đi kèm là cảnh báo vì tỷ lệ tín dụng/ GDP của Việt Nam ở mức 124%. Tỷ lệ tổng tài sản của tổ chức tín dụng Việt Nam trên tổng GDP là 187%, là đòn bẩy rất lớn, do vậy ảnh hưởng đến rủi ro an toàn tài chính trong tương lai’’, Phó Thống đốc thông tin thêm.
Theo ông Hà, trong hai năm 2020 - 2021, NHNN khá linh hoạt để mức tăng trưởng tín dụng cao so với tăng trưởng kinh tế. Như năm 2016 – 2019, NHNN để ở mức 2 lần so với GDP thì hai năm dịch COVID-19, hệ số nhân này là 4-5 lần.
''Cần hết sức thận trọng trong việc điều hành tăng trưởng tín dụng. Hiện nay, NHNN vẫn giữ (mục tiêu tăng trưởng tín dụng – pv) ở mức 14%, không điều chỉnh giảm và thấy rằng đây là mức phù hợp'', Phó Thống đốc nhấn mạnh.