Giá dầu có tuần giảm thứ 2 liên tiếp
Giá dầu giảm hơn 1 USD/thùng và có tuần giảm thứ 2 liên tiếp, do số liệu đáng thất vọng của Trung Quốc, dấy lên mối hoài nghi về tăng trưởng nhu cầu sau quyết định cắt giảm sản lượng của Saudi Arabia vào cuối tuần qua.
Chốt phiên giao dịch ngày 9/6, dầu thô Brent giảm 1,17 USD tương đương 1,5% xuống 74,79 USD/thùng và dầu thô Tây Texas WTI giảm 1,12 USD tương đương 1,6% xuống 70,17 USD/thùng.
Cả hai loại dầu đều giảm hơn 3 USD trong phiên trước đó, sau báo cáo thỏa thuận hạt nhân Mỹ - Iran sắp xảy ra và sẽ dẫn đến nhiều nguồn cung hơn.
Một số nhà phân tích dự kiến giá dầu sẽ tăng nếu Cục Dự trữ Liên bang Mỹ ngừng tăng lãi suất tại cuộc họp tới vào ngày 13-14/6/2023. Quyết định của Fed có thể ảnh hưởng đến động thái tiếp theo của Saudi Arabia.
Giá khí tự nhiên giảm 4%
Giá khí tự nhiên tại Mỹ giảm 4%, do dự báo nhu cầu trong 2 tuần tới thấp hơn so với dự kiến trước đó.
Giá khí tự nhiên kỳ hạn tháng 7/2023 trên sàn New York giảm 9,8 US cent tương đương 4,2% xuống 2,254 USD/mmBTU. Trong phiên trước đó, giá khí tự nhiên tăng phiên thứ 5 liên tiếp lên mức cao nhất kể từ ngày 24/5/2023.
Tuy nhiên, tính chung cả tuần giá khí tự nhiên tăng 4% sau khi giảm 1% trong tuần trước đó.
Giá vàng giảm, palađi thấp nhất 4 năm
Giá vàng giảm, do đồng USD và lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ tăng, song có tuần tăng mạnh nhất kể từ đầu tháng 5/2023, sau số liệu việc làm suy yếu làm gia tăng đặt cược Cục Dự trữ Liên bang Mỹ sẽ giữ nguyên lãi suất vào tuần tới.
Vàng giao ngay trên sàn LBMA giảm 0,3% xuống 1.961,39 USD/ounce, song có tuần tăng 0,7%, sau khi tăng 1,5% trong phiên trước đó và vàng kỳ hạn tháng 8/2023 trên sàn New York giảm 0,1% xuống 1.977,2 USD/ounce.
Chỉ số đồng USD tăng từ mức thấp nhất 2 tuần, khiến vàng trở nên đắt hơn đối với khách mua hàng nước ngoài, cùng với đó là lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ kỳ hạn 10 năm tăng khiến vàng trở nên kém hấp dẫn hơn.
Giá palađi giảm xuống mức thấp nhất kể từ tháng 5/2019 (1.324 USD/ounce).
Giá đồng có tuần tăng thứ 2 liên tiếp, thiếc cao nhất hơn 1 tháng
Giá đồng tăng và có tuần tăng thứ 2 liên tiếp, do dự kiến nhu cầu từ nước tiêu thụ hàng đầu – Trung Quốc – được cải thiện và tồn trữ giảm.
Giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn London tăng 0,2% lên 8.361 USD/tấn, sau khi đạt mức cao nhất kể từ ngày 11/5/2023 (8.451 USD/tấn).
Tính chung cả tuần, giá đồng tăng 1,5% và rời xa so với mức thấp nhất 6 tháng hôm 24/5/2023, do dự kiến Trung Quốc sẽ đưa ra gói kích thích kinh tế.
Tồn trữ đồng trong tuần này tại Thượng Hải giảm 11,7% xuống mức thấp nhất 6 tháng (76.473 tấn) và tồn trữ đồng tại London tiếp tục giảm.
Giá thiếc trên sàn London tăng 2,4% lên 26.440 USD/tấn, sau khi đạt mức cao nhất hơn 1 tháng (26.600 USD/tấn).
Giá quặng sắt và thép tăng
Giá quặng sắt trên sàn Đại Liên tăng và có tuần tăng thứ 2 liên tiếp, được thúc đẩy bởi lạc quan về triển vọng nhu cầu, khi các dấu hiệu cho thấy rằng nước sản xuất thép hàng đầu – Trung Quốc – đang chuyển sang hỗ trợ nền kinh tế suy yếu.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2023 trên sàn Đại Liên tăng 3,4% lên 812 CNY (114,03 USD)/tấn, chỉ dưới mức cao nhất kể từ ngày 20/4/2023 (812,5 CNY/tấn) trong phiên giao dịch. Tính chung cả tuần, giá quặng sắt tăng hơn 7%.
Đồng thời, giá quặng sắt kỳ hạn tháng 7/2023 trên sàn Singapore tăng 2% lên 112,45 USD/tấn, trước đó trong phiên tăng lên 112,65 USD/tấn – cao nhất kể từ ngày 20/4/2023. Tính chung cả tuần, giá quặng sắt tăng hơn 8%.
Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây tăng 1,6%, tính chung cả tuần giá thép cây tăng hơn 3%, ngay cả khi nhu cầu dự kiến sẽ giảm trong thời gian tạm lắng vào mùa hè, khi hoạt động xây dựng của Trung Quốc bắt đầu vào tháng này. Giá thép cuộn cán nóng tăng 2%, thép cuộn tăng 3,2% và thép không gỉ tăng 0,2%.
Giá cao su tiếp đà giảm
Giá cao su tại Nhật Bản giảm song có tuần tăng thứ 2 liên tiếp, chịu áp lực giảm bởi nhu cầu tại nước mua hàng đầu – Trung Quốc – suy yếu.
Giá cao su kỳ hạn tháng 11/2023 trên sàn Osaka giảm 0,9 JPY tương đương 0,4% xuống 212 JPY (1,52 USD)/kg. Tính chung cả tuần, giá cao su tăng 1%.
Đồng thời, giá cao su kỳ hạn tháng 9/2023 trên sàn Thượng Hải giảm 30 CNY xuống 12.060 CNY (1.693,08 USD)/tấn.
Giá cao su kỳ hạn tháng 7/2023 trên sàn Singapore không thay đổi ở mức 133,7 US cent/kg.
Giá cà phê giảm
Giá cà phê robusta trên sàn London giảm, sau khi trước đó đạt mức cao kỷ lục.
Giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 9/2023 trên sàn London giảm 24 USD tương đương 0,9% xuống 2.702 USD/tấn, sau khi đạt mức cao kỷ lục 2.790 USD/tấn.
Đồng thời, giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 9/2023 trên sàn ICE giảm 3,7 US cent tương đương 1,9% xuống 1,8665 USD/lb, sau khi đạt mức cao nhất 3,5 tuần (1,9175 USD/lb).
Xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong 5 tháng đầu năm 2023 đạt 866.121 tấn, giảm 3,9% so với cùng kỳ năm ngoái.
Giá đường giảm
Giá đường thô kỳ hạn tháng 7/2023 trên sàn ICE giảm 0,1 US cent tương đương 0,4% xuống 25,38 US cent/lb, sau khi đạt mức cao nhất 2 tuần (26,15 US cent/lb). Tính chung cả tuần, giá đường thô tăng 2,6%.
Đồng thời, giá đường trắng kỳ hạn tháng 8/2023 trên sàn London giảm 7,9 USD tương đương 1,1% xuống 680,9 USD/tấn.
Giá dầu đậu tương cao nhất 1 tháng, đậu tương cao nhất 3 tuần, lúa mì tăng, ngô giảm
Giá đậu tương trên sàn Chicago tăng lên mức cao nhất 3 tuần, do giá dầu đậu tương tăng lên mức cao nhất 1 tháng.
Trên sàn Chicago, giá đậu tương kỳ hạn tháng 7/2023 tăng 23-1/4 US cent lên 13,86-1/2 USD/bushel – cao nhất kể từ ngày 16/5/2023. Giá dầu đậu tương tăng lên mức cao nhất kể từ ngày 8/5/2023 và tăng 2,09 US cent lên 54,59 US cent/lb. Giá lúa mì kỳ hạn tháng 7/2023 tăng 4 US cent lên 6,3-1/4 USD/bushel, trong khi giá ngô kỳ hạn tháng 7/2023 giảm 6 US cent xuống 6,04-1/4 USD/bushel.
Giá dầu cọ tăng 3%
Giá dầu cọ tại Malaysia tăng hơn 3%, song có tuần giảm thứ 2 liên tiếp.
Giá dầu cọ kỳ hạn tháng 8/2023 trên sàn Bursa Malaysia tang 106 ringgit tương đương 3,25% lên 3.370 ringgit (730,7 USD)/tấn. Tính chung cả tuần, giá dầu cọ giảm 0,41% do dự kiến sản lượng và tồn trữ tăng.
Giá một số mặt hàng chủ chốt sáng ngày 10/6