Ngành sản xuất tiếp tục tăng trưởng cao
Theo đánh giá của Cục Thống kê, tăng trưởng GDP quý III đạt 8,23% cho thấy sự bứt tốc rõ rệt, là một trong hai quý tăng cao nhất kể từ sau Covid-19, chỉ thấp hơn mức tăng trưởng 14,38% của quý III năm 2022. Tính chung 9 tháng, tăng trưởng GDP đạt 7,85%.
Tính chung 9 tháng, Khu vực I tăng 3,83%, đóng góp 0,43 điểm phần trăm; Khu vực II tăng 8,69%, đóng góp 3,46 điểm phần trăm; Khu vực III tăng 8,49%, đóng góp 4,15 điểm phần trăm. Tăng trưởng kinh tế 9 tháng là mức tăng cao thứ hai kể từ năm 2011 tới nay (thấp hơn mức tăng vượt trội 9,44% năm 2022 phục hồi sau dịch bệnh covid); các chỉ số nhìn từ phía cung và phía cầu đều khá tích cực.
Nhìn từ phía cung, các ngành kinh tế ghi nhận những diễn biến khá tích cực trong quý III và 9 tháng. Một số ngành kinh tế tăng trưởng cao trong quý III, 9 tháng như: công nghiệp chế biến chế tạo tăng 9,98% và 9,92%; sản xuất và phân phối điện tăng 10,01% và 6,05%; bán buôn, bán lẻ sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy tăng 8,98% và 8,28%; dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 10,46% và 10,15% vận tải kho bãi tăng 10,66% và 10,68%; thông tin và truyền thông tăng 7,94% và 7,62%.
Nhìn từ phía cầu, tiêu dùng cuối cùng, đầu tư và xuất khẩu là ba trụ cột quan trọng cho tăng trưởng kinh tế quý III, 9 tháng năm 2025.
Tiêu dùng nội địa phục hồi đáng kể trong quý III, thể hiện ở Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng tăng khá khoảng 9,5%, loại trừ yếu tố giá là 7,2% (cùng kỳ năm trước tăng 5,8%), du lịch phục hồi, khách quốc tế đến Việt Nam đạt hơn 15,4 triệu lượt khách, tăng 21,5% so với cùng kỳ năm trước. Việc duy trì chính sách giảm 2% thuế VAT từ 10% xuống 8%, kích thích tiêu dùng nội địa, lan tỏa tới sản xuất hàng hóa và dịch vụ trong nước.
Đầu tư tiếp tục tăng trưởng khá nhờ đầu tư công được thúc đẩy quyết liệt, FDI duy trì đà tăng trưởng tích cực. Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội 9 tháng đầu năm 2025 tăng 11,6 % so với cùng kỳ 2024, cao hơn nhiều mức tăng 6,8% cùng kỳ 9 tháng 2024; vốn FDI thực hiện tăng 11,2% (cùng kỳ năm trước tăng 10,7%).
Bên cạnh những trụ cột truyền thống, nền kinh tế Việt Nam đang khai thác mạnh mẽ những động lực tăng trưởng mới. Cụ thể: Kinh tế số và đổi mới sáng tạo. Kinh tế xanh và năng lượng tái tạo. Cải cách thể chế và môi trường kinh doanh.
Những điểm nghẽn cần tháo gỡ trong Quý IV/2025
Để duy trì đà tăng trưởng và đạt mục tiêu tăng trưởng trên 8% năm 2025, theo Cục Thống kê cần tập trung tháo gỡ 3 nhóm điểm nghẽn chính:
Thứ nhất, thực thi chính sách và thể chế. Đầu tư công mặc dù giải ngân tốt, vẫn còn vướng mắc về thủ tục hành chính, giải phóng mặt bằng và năng lực quản lý của một số địa phương còn hạn chế làm chậm tiến độ tổng thể. Cần quyết liệt tháo gỡ mọi nút thắt về thủ tục hành chính, giải phóng mặt bằng và nâng cao năng lực quản lý để đẩy nhanh tiến độ thi công các dự án, đặc biệt là các dự án hạ tầng giao thông trọng điểm của đất nước. Đảm bảo giải ngân tối đa hướng tới mục tiêu giải ngân 100% vốn đầu tư công mà Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu.
Thứ hai, thị trường và vốn. Nhu cầu thanh toán đơn hàng xuất khẩu cuối năm và diễn biến chính sách tiền tệ quốc tế có thể gây áp lực lên tỷ giá, ảnh hưởng đến chi phí nhập khẩu và nợ ngoại tệ của doanh nghiệp. Do vậy, cần linh hoạt sử dụng các công cụ tiền tệ để giữ ổn định tỷ giá, đồng thời kiểm soát lạm phát ở mức mục tiêu.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp, đặc biệt là khu vực nhỏ và vừa, vẫn gặp khó trong tiếp cận vốn trung và dài hạn, trong khi quy mô thị trường nội địa chưa thật sự lớn. Giải pháp là phát triển thị trường vốn minh bạch, đa dạng hóa các kênh huy động vốn. Cùng với đó, cần có cơ chế hỗ trợ thiết thực cho doanh nghiệp, đồng thời mở rộng thị trường xuất khẩu, tận dụng tốt các hiệp định thương mại tự do để mở rộng không gian tăng trưởng.
Sức khỏe thị trường bất động sản và trái phiếu mặc dù có dấu hiệu phục hồi, rủi ro nợ xấu hệ thống vẫn tiềm ẩn cần tiếp tục xử lý nợ xấu theo ngành, phát triển thị trường mua bán nợ. Cung cấp tín dụng có trọng tâm vào nhà ở xã hội và các dự án khả thi.
Thứ ba, chất lượng nguồn nhân lực và cạnh tranh. Chi phí logistics cao, chiếm tỷ trọng lớn trong giá thành sản phẩm, làm giảm sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam. Cần tập trung đầu tư đồng bộ vào hệ thống hạ tầng giao thông kết nối (cảng biển, đường bộ, đường sắt) và đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số trong logistics.
Năng suất lao động của nước ta còn thấp, nguồn nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng đủ, trong khi đào tạo chưa sát với nhu cầu thị trường. Vì vậy, cần gắn đào tạo nghề với nhu cầu doanh nghiệp, chú trọng kỹ năng số và kỹ năng mềm. Song song, cần thúc đẩy mạnh mẽ việc thu hút và giải ngân vốn FDI chất lượng cao vào công nghệ, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, có ưu đãi cho hoạt động R&D, phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp, và hỗ trợ doanh nghiệp trong nước nâng cao quản trị, tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Bên cạnh ba nhóm điểm nghẽn cốt lõi trên, cũng cần lưu ý một số nguy cơ tiềm ẩn, mang tính dài hạn: Hạ tầng và logistics vẫn chưa đồng bộ, gây ra chi phí cao cho sản xuất và lưu thông hàng hóa. Đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số còn chậm, doanh nghiệp ít đầu tư cho nghiên cứu - phát triển, nguy cơ tụt hậu trong cuộc đua công nghệ. Môi trường và phát triển bền vững trở thành thách thức ngày càng lớn, khi biến đổi khí hậu, yêu cầu năng lượng xanh và tiêu chuẩn ESG đang tác động trực tiếp đến sức cạnh tranh.