Ngày 22/11, tại Hà Nội, Cục Quản lý nợ và tài chính đối ngoại (Bộ Tài chính) phối hợp với Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) tổ chức Hội thảo chuyên đề tham vấn xây dựng chương trình quản lý nợ công vận dụng khuôn khổ chiến lược nợ trung hạn (MTDS).
Hội thảo này nhằm tổng kết lại các trao đổi, đánh giá của các chuyên gia và học viên tại Khoá đào tạo cập nhật mô hình Chương trình quản lý nợ trung hạn về dự báo nhu cầu vay và dự kiến trả nợ, điều kiện tài chính, lựa chọn các nguồn vốn vay và quy mô vay vốn, cơ sở dự báo lãi suất và tỷ giá; trên cơ sở đó các chuyên gia IMF/WB đánh giá kết quả nghiên cứu sơ bộ MTDS đối với Việt Nam để đưa ra khuyến nghị trong xây dựng kế hoạch vay trả nợ. Đồng thời, là cơ hội để cơ quan quản lý nợ lắng nghe chia sẻ của các cơ quan liên quan về công tác xây dựng kế hoạch vay, trả nợ hiện nay cũng như nhu cầu chi của ngân sách, dự kiến trả nợ, lựa chọn công cụ và quy mô huy động, nhu cầu đáp ứng vốn của thị trường, chính sách của các bên cho vay.
Trao đổi tại Hội thảo về xây dựng chương trình quản lý nợ công trung hạn vận dụng mô hình MTDS, ông Lars Jessen, chuyên gia của WB cho biết, Luật Quản lý nợ công 2017 của Việt Nam đã đặt nền móng cho cải cách nợ công trong thời gian qua và đạt được kết quả khả quan trên nhiều phương diện, bao gồm: Chương trình quản lý nợ công 3 năm 2023-2025 đã bắt đầu dựa trên phân tích bằng công cụ MTDS; phát hành trái phiếu trong nước thực hiện trên cơ sở kế hoạch vay, trả nợ và kế hoạch phát hành; điều phối ngắn hạn giữa phát hành nợ và quản lý ngân quỹ cải thiện; áp dụng các biện pháp phòng ngừa rủi ro đối với bảo lãnh Chính phủ và cho vay lại...
Còn ông Lars Jessen - Chuyên gia của WB cho biết; Luật Quản lý nợ công 2017 của Việt Nam đã đặt nền móng cho cải cách nợ công trong thời gian qua và đạt được kết quả khả quan trên nhiều phương diện, bao gồm: Chương trình quản lý nợ công 3 năm 2023-2025 đã bắt đầu dựa trên phân tích bằng công cụ MTDS; phát hành trái phiếu trong nước thực hiện trên cơ sở kế hoạch vay, trả nợ và kế hoạch phát hành; điều phối ngắn hạn giữa phát hành nợ và quản lý ngân quỹ cải thiện; áp dụng các biện pháp phòng ngừa rủi ro đối với bảo lãnh Chính phủ và cho vay lại...
Ông Lars Jessen cũng đưa ra một số khuyến nghị nhằm nâng cao chiến lược quản lý nợ công trong thời gian tới như tiếp tục xây dựng các chỉ tiêu nợ và mục tiêu cơ cấu nợ; củng cố trao đổi thông tin với các nhà đầu tư; tăng cường hệ thống công nghệ thông tin quản lý nợ; cải thiện báo cáo nợ và dữ liệu nợ, đặc biệt là bản tin nợ công...
Trình bày về xây dựng Chương trình quản lý nợ công 3 năm 2023-2025, bà Hồ Việt Hương, Phó Trưởng phòng Phòng Kế hoạch và Quản lý rủi ro, Cục QLN&TCĐN cho biết, về định hướng vay của Chính phủ trong trung và dài hạn, sẽ tiếp tục cách tiếp cận phù hợp để giảm chi phí cho Chính phủ cũng như quản lý rủi ro hiệu quả. Chính phủ cũng đặt mục tiêu đa dạng các nguồn vốn, phương thức vay trong và ngoài nước, cân đối giữa nợ trong nước và nợ nước ngoài để đáp ứng nhiệm vụ huy động vốn của Chính phủ, hạn chế phụ thuộc vào các thị trường có điều kiện vay biến động.
Về định hướng vay trong nước, cơ quan quản lý hướng tới mục tiêu đa dạng hóa kỳ hạn phát hành trái phiếu chính phủ, bao gồm cả kỳ hạn dưới 5 năm, góp phần hoàn thiện đường cong lãi suất chuẩn; phấn đấu đưa trái phiếu chính phủ Việt Nam vào “rổ” chỉ số trái phiếu chính phủ các nước mới nổi; nghiên cứu khả năng phát hành các sản phẩm trái phiếu mới phù hợp với sự phát triển của thị trường và nhu cầu của nhà đầu tư; đồng thời, hoàn thiện cơ chế chính sách về đầu tư nhằm thu hút các nhà đầu tư chuyên nghiệp, nhà đầu tư dài hạn, đa dạng hóa loại hình quỹ đầu tư mục tiêu trong đó có quỹ đầu tư trái phiếu...
Đối với định hướng vay nước ngoài, tận dụng các khoản vay ODA còn lại và tranh thủ huy động hợp lý các khoản vay ưu đãi đã cam kết; từng bước chuyển dịch từ vay chương trình, dự án sang phương thức vay hỗ trợ ngân sách để gia tăng tính chủ động, hiệu quả trong sử dụng vốn; đặc biệt, phát hành trái phiếu quốc tế để bù đắp bội chi ngân sách trung ương cho đầu tư phát triển và để cơ cấu lại nợ của Chính phủ khi điều kiện thị trường thuận lợi.