
Kể từ năm 1986, sau 40 năm đổi mới, từ một nền kinh tế lạc hậu, Việt Nam đã trở thành một trong 32 nền kinh tế lớn nhất thế giới, có quy mô kinh tế tăng gấp gần 100 lần, thu nhập bình quân đầu người tăng từ dưới 100 USD lên gần 5.000 USD; có quan hệ kinh tế thương mại với 230 quốc gia và vùng lãnh thổ, chiếm gần 90% GDP của thế giới và mạng lưới của 20 hiệp định thương mại tự do (FTA). Tuy nhiên, bước vào giai đoạn phát triển mới, những động lực từng tạo nên bứt phá suốt nhiều qua không còn đủ mạnh, đòi hỏi Việt Nam phải tìm một cách tiếp cận hoàn toàn khác để giữ nhịp bứt phá.

Chính trong thời điểm mang tính bước ngoặt này, chỉ trong vòng 6 tháng, Bộ tứ nghị quyết đã lần lượt được ban hành: Nghị quyết 57 về khoa học – công nghệ – đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; Nghị quyết 59 về Hội nhập quốc tế trong tình hình mới; Nghị quyết 66 về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới; và Nghị quyết 68 về phát triển kinh tế tư nhân.
Như Tổng Bí thư đã nhấn mạnh tại Hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết số 66-NQ/TW và Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị diễn ra vào 18/5: "Bốn Nghị quyết đột phá là 'Bộ tứ trụ cột' đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới. Những đổi mới, cải cách mà chúng ta đang triển khai không chỉ là yêu cầu khách quan của phát triển mà còn là mệnh lệnh từ tương lai dân tộc".

“Bốn Nghị quyết quan trọng của Bộ Chính trị ban hành sẽ là những trụ cột thể chế nền tảng, tạo động lực mạnh mẽ đưa đất nước ta tiến lên trong kỷ nguyên mới, hiện thực hóa tầm nhìn Việt Nam phát triển, thu nhập cao vào năm 2045. Nếu không đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế hai con số trong nhiều năm liên tiếp, chúng ta sẽ khó hoàn thành mục tiêu này. Hiện thu nhập bình quân đầu người mới khoảng 5.000 USD, trong khi mục tiêu là đạt 20.000 USD trong vòng 20 năm tới. Thời gian bây giờ không cho phép nữa, chúng ta phải tập trung rất cao”, Tổng Bí thư nhấn mạnh thêm.
Từ góc nhìn kinh tế, TS. Cấn Văn Lực cho rằng lý do đầu tiên và quan trọng khiến Việt Nam cần ban hành các Nghị quyết chưa từng có chính là dấu hiệu tăng trưởng đang có xu hướng chậm lại. Ông phân tích, nhìn lại 40 năm đổi mới, tốc độ tăng trưởng của Việt Nam cứ 10 năm sau lại thấp hơn 10 năm trước.
Cụ thể, giai đoạn 2016 – 2024, Việt Nam tăng trưởng khoảng 6%, chậm hơn so với giai đoạn trước đó (khoảng 6,2%). Thực trạng này đặt ra thách thức lớn đối với mục tiêu trở thành nước thu nhập cao vào năm 2045.
Kéo theo đó, nguy cơ mắc kẹt trong "bẫy thu nhập trung bình" trở nên rõ ràng và cấp bách hơn. TS. Cấn Văn Lực lấy dẫn chứng từ kinh nghiệm của các nước khu vực như Malaysia, Indonesia, Philippines và Thái Lan, những quốc gia đã mắc kẹt và 30 năm vừa qua chưa ngoi lên được. Điều này buộc Việt Nam phải hành động quyết liệt để tránh kịch bản tương tự.
Và một trong những nguyên nhân của sự chậm lại nằm ở các rào cản về thể chế. Nhà nước đã thẳng thắn chỉ ra rằng cấu trúc thể chế chính là “điểm nghẽn của điểm nghẽn, với hệ thống pháp luật còn “chồng chéo, mâu thuẫn, chưa rõ ràng”, gây cản trở cho đổi mới sáng tạo và giải phóng các nguồn lực.

Sự tắc nghẽn về thể chế dẫn đến sự lãng phí nguồn lực rất lớn. Như Báo cáo trước Quốc hội, Thủ tướng đã chỉ ra rằng có hơn 2.200 dự án đang bị ách tắc, chủ yếu do vướng thủ tục pháp lý. Các dự án này tích đọng khoảng 5,9 triệu tỷ đồng (tương đương 235 tỷ USD) và gần 350.000 ha đất. Chính phủ nhìn nhận khó khăn này như một cơ hội to lớn hiếm có, đòi hỏi phải tập trung đột phá để giải phóng 6-7 triệu tỷ đồng này, tạo động lực mạnh mẽ cho tăng trưởng. Và Bộ tứ nghị quyết ra đời để góp phần thực hiện mục tiêu này.
Đáng chú ý, theo PGS. TS Trần Đình Thiên, Bộ tứ Nghị Quyết ra đời trong bối cảnh quốc tế đầy biến động. Điển hình là chính sách thuế đối ứng của Donald Trump, khiến kinh tế thế giới hỗn loạn. Đối với một nền kinh tế mở như Việt Nam, tác động bất lợi là rất lớn.
Tuy nhiên, trong tình thế bất thường cần áp dụng giải pháp khác thường. Năm 2025 – thời điểm “cùng tắc biến” – chính là lúc Bộ tứ trụ cột xuất hiện để xoay chuyển tình thế. Điều quan trọng, theo PGS. TS Trần Đình Thiên là Việt Nam đã xử lý được cú sốc toàn cầu mà không hoảng loạn, giữ được sự ổn định và củng cố sức chống chịu của nền kinh tế. Bộ tứ nghị quyết vì thế trở thành bộ khung để Việt Nam tận dụng đà phục hồi, tạo động lực tăng trưởng mới.
Có thể nói rằng, Việt Nam đã chọn đúng thời điểm. Trong khi thế giới bất ổn, Việt Nam đang nổi lên như một điểm hội tụ đáng tin cậy. Cùng với sự ra đời của Bộ tứ nghị quyết, Việt Nam dễ dàng huy động được trí tuệ, tài chính và nguồn lực vật chất của nhân loại nhằm bước vào giai đoạn phát triển mới, nhanh hơn, hiệu quả hơn và bền vững hơn, PGS. TS Trần Đình Thiên nhấn mạnh.

PGS.TS Trần Đình Thiên cho biết thêm, “Bộ tứ Nghị quyết” đánh dấu sự tái cấu trúc tư duy phát triển ở một đẳng cấp mới, mở ra một “quá trình khác thường” cho nền kinh tế Việt Nam. Không chỉ là định hướng chiến lược, bốn nghị quyết này được kỳ vọng tạo ra kết quả cụ thể, có thể đo lường, nhằm đưa Việt Nam bước vào một giai đoạn tăng trưởng mới.
Đầu tiên, Bộ tứ Nghị quyết được kỳ vọng tạo ra cú bứt tốc về tăng trưởng kinh tế. Mục tiêu trước mắt là đạt mức tăng trưởng GDP 8,3–8,5% vào năm 2025 và xa hơn là tốc độ tăng trưởng hai chữ số trong giai đoạn 2026–2030.
PGS. TS Trần Đình Thiên thừa nhận mục tiêu tăng trưởng hai chữ số có tính bất khả thi rất cao trên phạm vi toàn cầu, vì lịch sử thế giới chưa từng ghi nhận quốc gia nào đạt được tăng trưởng hai chữ số liên tục trong 5-10 năm. Tuy nhiên, Bộ tứ Nghị quyết đã mở ra một cách tiếp cận hoàn toàn khác, tạo nền tảng để biến bất khả thi thành khả thi.

Với Nghị quyết 57, kỳ vọng dẫn dắt một bước nhảy thời đại về khoa học – công nghệ và chuyển đổi số. Việt Nam hướng tới mô hình tăng trưởng dựa trên trí tuệ sáng tạo, thay thế mô hình công nghiệp hóa kiểu cũ.
Mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam thuộc nhóm ba nước dẫn đầu Đông Nam Á về AI, kinh tế số đạt tối thiểu 30% GDP; đến năm 2045, kinh tế số chiếm ít nhất 50% GDP và Việt Nam trở thành trung tâm công nghiệp công nghệ số của khu vực, nằm trong top 30 quốc gia dẫn đầu về đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số - đây là lĩnh vực được dự báo sẽ đạt 4.000 tỷ USD theo Báo cáo phân tích thị trường chuyển đổi số của Grand View Research.

Trên nền tảng khoa học – công nghệ từ Nghị quyết 57, Nghị quyết 59 mở cánh cửa hội nhập quốc tế, chuyển từ tâm thế xin cho sang đóng góp và định hình trật tự quốc tế. Tinh thần “chia sẻ rủi ro – hài hòa lợi ích” giúp Việt Nam không chỉ thu hút nguồn lực quốc tế mà còn chủ động tạo ra các chuẩn mực mới. Quyền Bộ trưởng Ngoại giao Lê Hoài Trung gọi đây là “bước ngoặt lịch sử”, bởi Nghị quyết 59 sẽ mở rộng không gian phát triển của Việt Nam ra quy mô toàn cầu, yếu tố then chốt để các lĩnh vực công nghệ, đổi mới sáng tạo, kinh tế số phát triển mạnh mẽ.
Khi không gian phát triển được mở rộng, Việt Nam cần một hệ thống thể chế đủ mạnh để hấp thụ và chuyển hóa các nguồn lực. Nghị quyết 66 ra đời và được xác định là đột phá của đột phá, nhằm tháo gỡ các điểm nghẽn pháp lý và biến thể chế thành lợi thế cạnh tranh.
Theo đó, mục tiêu năm 2025 cơ bản hoàn thành việc xử lý ách tắc pháp luật; đến năm 2028, môi trường đầu tư kinh doanh của Việt Nam vào top 3 ASEAN và top 30 dần đầu thế giới. Đặc biệt, việc phá băng hàng loạt dự án ách tắc được kỳ vọng giải phóng 6 - 7 triệu tỷ đồng, tạo cú hích mạnh ngay trong trung hạn, như PGS. TS Trần Đình Thiên đã chia sẻ.
Khi nền tảng công nghệ đã mở, hội nhập được nâng tầm và thể chế thông thoáng hơn, Nghị quyết 68 xuất hiện nhằm thay đổi căn bản động lực tăng trưởng và mở ra các không gian phát triển mới. Nghị quyết này khẳng định khu vực tư nhân là một trong những động lực quan trọng nhất của nền kinh tế, phấn đấu đóng góp 55–58% GDP vào năm 2030.
Tóm lại, Bộ tứ Nghị quyết không chỉ giải quyết từng nhóm vấn đề riêng biệt mà hướng tới mục tiêu lớn hơn: định hình lại toàn bộ động lực tăng trưởng và mở ra những không gian phát triển mới, từ đất, biển, trời đến ngầm, số và văn hóa. Trong đó, không gian số được đánh giá là vô tận, có thể tạo nên tầng tăng trưởng hoàn toàn mới cho nền kinh tế Việt Nam.

Từ bức tranh mục tiêu đó, Bộ tứ Nghị quyết bắt đầu đi vào thực tiễn. Tác động lớn nhất của Bộ tứ Nghị quyết là việc thay đổi căn bản cách thức quản lý, kiến tạo môi trường kinh doanh và sống dựa trên nguyên tắc thị trường, minh bạch và tôn trọng quyền lợi của chủ thể kinh tế. Như Tổng Bí thư đã yêu cầu: “Người dân và doanh nghiệp phải được xác định là trung tâm và chủ thể sáng tạo trong phát triển".
Đối với doanh nghiệp, Bộ nghị quyết mở ra một môi trường mới, nơi khu vực tư nhân lần đầu tiên được khẳng định đầy đủ về vị thế “người chiến sĩ trên mặt trận kinh tế”. Trước hết, Nghị quyết 57 tạo nền bứt phá về khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo, cho phép thí điểm (sandbox) các mô hình kinh doanh và công nghệ mới. Điều này giúp doanh nghiệp có không gian thử nghiệm an toàn, nhanh chóng và linh hoạt, thay đổi cách tiếp cận từ “đi theo” sang “dẫn dắt”.
Tiếp đó, Nghị quyết 59 mở rộng không gian phát triển thông qua hội nhập quốc tế sâu hơn, giúp doanh nghiệp tiếp cận thị trường lớn, tiêu chuẩn cao và nguồn lực toàn cầu. Đây là điều kiện quan trọng để các lĩnh vực công nghệ, đổi mới sáng tạo và kinh tế số có môi trường vươn ra ngoài biên giới.
Trên nền tảng công nghệ và hội nhập đó, Nghị quyết 66 tháo gỡ trực diện những rào cản thể chế. Nghị quyết đặt mục tiêu cắt giảm tối thiểu 30% thời gian thủ tục, 30% chi phí tuân thủ, 30% điều kiện kinh doanh ngay trong năm 2025, cùng chuyển mạnh từ tiền kiểm sang hậu kiểm gắn với tăng cường kiểm tra, giám sát. Đây là bước then chốt để đưa môi trường đầu tư kinh doanh của Việt Nam vào nhóm ba nước dẫn đầu ASEAN vào năm 2028.
Cuối cùng, Nghị quyết 68 xác lập khu vực tư nhân là một trong những động lực quan trọng nhất của nền kinh tế, tạo cú hích mạnh về cơ chế tài chính. Theo Nghị quyết 68, doanh nghiệp được tính vào chi phí khi xác định thu nhập chịu thuế đối với hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) bằng 200% chi phí thực tế của hoạt động này.

Quan trọng hơn, Nhà nước thể hiện sự tin tưởng bằng cách giao các nhiệm vụ chiến lược, từ đường sắt tốc độ cao, đường sắt đô thị đến sân bay Long Thành hay các ngành công nghiệp mũi nhọn cho các tập đoàn tư nhân lớn.
Những dự án từng mất nhiều năm chuẩn bị nay được hoàn thành trong thời gian ngắn hơn, thể hiện đẳng cấp và sức bật của “đại bàng nội địa”. PGS. TS Trần Đình Thiên chia sẻ, nếu như trước đây làm một sân bay quy mô 325 ha, công suất phục vụ 2,5 triệu hành khách/năm cần 5-10 năm thì hiện nay doanh nghiệp Việt chỉ cần 1-2 năm là hoàn thành.
Song song với sự thay đổi đối với doanh nghiệp, tác động đến người dân và xã hội còn sâu rộng hơn. Đầu tiên, Nghị quyết 57 đặt nền móng cho việc khơi dậy trí tuệ Việt Nam trong thời đại số. Người dân được khuyến khích học tập suốt đời, nâng cao năng lực số và tham gia sâu hơn vào quá trình sáng tạo, khởi nghiệp cũng như xây dựng pháp luật. Những giá trị như tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường và niềm tự hào dân tộc trở thành động lực tinh thần quan trọng để mỗi cá nhân hội nhập và phát triển.

Và Nghị quyết 59 tiếp tục mở rộng không gian phát triển của người dân thông qua tiến trình hội nhập quốc tế. Tại Hội nghị toàn quốc quán triệt và triển khai thực hiện 4 Nghị quyết diễn ra vào 16/9, Quyền Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Lê Hoài Trung nhấn mạnh rằng, mọi chính sách hội nhập “lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm, làm chủ thể, động lực, lực lượng chủ công và đối tượng thụ hưởng chính”. Điều này có nghĩa lợi ích của hội nhập từ cơ hội việc làm, thu nhập, phúc lợi đến khả năng tiếp cận công nghệ và tiêu chuẩn sống toàn cầu phải quay trở lại phục vụ trực tiếp đời sống nhân dân.
Ở tầng cao hơn, Nghị quyết 66 đặt ra yêu cầu mang tính nền tảng: hệ thống pháp luật phải coi quyền con người, quyền công dân là trung tâm của mọi thiết kế chính sách. Người dân không còn được nhìn nhận đơn thuần là đối tượng chịu sự điều chỉnh của pháp luật mà trở thành chủ thể cần được bảo vệ, tôn trọng và tạo điều kiện phát triển. Việc thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, từ đó, được xác lập như chuẩn mực ứng xử chung trong toàn xã hội.
Nhìn tổng thể, Bộ Tứ Nghị Quyết đặt ra hướng đi cho một mô hình phát triển mới: Nhà nước kiến tạo – doanh nghiệp bứt phá – người dân sáng tạo. Đây chính là nền tảng để Việt Nam tự tin bước vào giai đoạn tăng trưởng dựa trên đổi mới sáng tạo, khoa học – công nghệ và hiệu quả thể chế.

FChoice là bảng bình chọn thường niên do CafeF tổ chức, ra đời từ năm 2021. Đây không chỉ là một cuộc bình chọn thông thường mà là "bản đồ thành tựu" phản ánh những câu chuyện đột phá, có tác động quan trọng đến nền kinh tế quốc gia, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính. Năm 2025, FChoice đã chính thức quay trở lại với thông điệp "Việt Nam vươn mình" với 4 nhóm hạng mục lớn.
Ngay từ bây giờ, hãy theo dõi bảng vinh danh TẠI ĐÂY với những câu chuyện đột phá, những minh chứng sống động cho sự kiên cường, nỗ lực đổi mới và niềm tự hào dân tộc trong giai đoạn phát triển mới.
Bài: Bình Minh
Thiết kế: Hải An

