Mới đây, S&P Global Market Intelligence đã đăng tải bài viết phân tích về tình hình kinh tế Việt Nam trong những tháng đầu năm của ông Rajiv Biswas, Nhà kinh tế trưởng Châu Á - Thái Bình Dương của S&P Global Market Intelligence.
Bài viết điểm lại bối cảnh chung của nền kinh tế Việt Nam trong những tháng đầu năm 2023. GDP thực tế của Việt Nam tăng 8,0% vào năm 2022 khi nền kinh tế phục hồi mạnh mẽ sau tình trạng gián đoạn kinh tế do đại dịch COVID-19 gây ra trong nửa cuối năm 2021. Tuy nhiên, đà tăng trưởng kinh tế đã điều chỉnh xuống mức 3,3% so cùng kỳ trong quý đầu tiên của năm 2023 , phản ánh tác động của suy yếu tăng trưởng trong sản xuất công nghiệp và xuất khẩu.
Ông Rajiv Biswas nhắc lại rằng xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam tăng 10,6% trong năm 2022. Tuy nhiên, suy thoái kinh tế ở Mỹ và EU, vốn chiếm 42% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam, đã khiến xuất khẩu suy giảm đáng kể trong quý 1/2023, với hàng hóa xuất khẩu giảm 11,9% so với cùng kỳ.
Mỹ vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, chiếm 29,4% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa. Xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ tăng 13,6% trong năm 2022, thặng dư thương mại song phương đạt 95 tỷ USD.
Sản xuất công nghiệp của Việt Nam năm 2022 tăng 7,8% so với cùng kỳ, trong đó sản lượng chế tạo tăng 8,0% so với cùng kỳ. Tuy nhiên, lĩnh vực sản xuất đã chậm lại vào đầu năm 2023, với sản xuất công nghiệp giảm 6,3% so với cùng kỳ trong hai tháng đầu năm 2023.
Chỉ số Nhà quản trị Mua hàng Sản xuất (PMI, của S&P Global) của Việt Nam đã giảm xuống 47,7 vào tháng 3/2023, giảm từ mức 51,2 vào tháng 2. Dữ liệu tháng 3 báo hiệu các điều kiện kinh doanh bị thu hẹp.
Cuộc khảo sát tháng 3 cho thấy sự sụt giảm trong cả tổng số đơn đặt hàng mới và đơn đặt hàng xuất khẩu mới. Tổng số đơn đặt hàng mới giảm lần thứ tư trong năm tháng qua, trong khi hoạt động kinh doanh mới từ nước ngoài giảm lần đầu tiên sau ba tháng. Đổi lại, lượng công việc tồn đọng giảm với tốc độ nhanh nhất kể từ tháng 11 năm ngoái. Phù hợp với bức tranh suy yếu về số lượng đơn đặt hàng mới, sản lượng sản xuất cũng giảm trong tháng 3 sau khi tăng trong tháng 2. Tuy nhiên, mức giảm chỉ ở mức khiêm tốn. Sản xuất hàng hóa đầu tư tăng, nhưng giảm trong các loại hàng tiêu dùng và trung gian.
Khảo sát PMI tháng 3 cũng chỉ ra rằng áp lực lạm phát đã giảm bớt vào cuối quý 1 năm 2023. Mặc dù phí nhà cung cấp tăng đồng nghĩa với việc chi phí đầu vào tiếp tục tăng, tốc độ lạm phát ở mức thấp nhất kể từ tháng 10 năm ngoái, chấm dứt thời kỳ lạm phát chi phí gia tăng. Với giá đầu vào tăng với tốc độ chậm hơn và các doanh nghiệp muốn định giá cạnh tranh để kích cầu, giá đầu ra tăng nhẹ trong tháng 3.
Tỷ lệ lạm phát CPI điều chỉnh ở mức 3,4% so với cùng kỳ vào tháng 3 năm 2023, so với tỷ lệ 4,3% so với cùng kỳ vào tháng 2.
Động lực tăng trưởng trung hạn của Việt Nam
Trong triển vọng trung hạn trong 5 năm tới, một số động lực chính dự kiến sẽ tiếp tục đưa Việt Nam trở thành một trong những thị trường mới nổi phát triển nhanh nhất ở khu vực châu Á.
Thứ nhất, Việt Nam sẽ tiếp tục được hưởng lợi từ chi phí lương cho ngành sản xuất tương đối thấp hơn so với các tỉnh ven biển của Trung Quốc, nơi tiền lương cho ngành sản xuất đã tăng nhanh trong thập kỷ qua.
Thứ hai, Việt Nam có lực lượng lao động tương đối lớn, được đào tạo tốt so với nhiều đối thủ cạnh tranh khác trong khu vực ở Đông Nam Á, khiến Việt Nam trở thành trung tâm sản xuất hấp dẫn của các công ty đa quốc gia.
Thứ ba, dự kiến chi tiêu vốn sẽ tăng nhanh, phản ánh đầu tư trực tiếp nước ngoài mạnh mẽ của các công ty đa quốc gia nước ngoài cũng như chi tiêu cho cơ sở hạ tầng trong nước. Ví dụ, chính phủ Việt Nam đã ước tính rằng cần 133 tỷ USD chi tiêu cho cơ sở hạ tầng điện mới vào năm 2030, bao gồm 96 tỷ USD cho các nhà máy điện và 37 tỷ USD để mở rộng lưới điện.
Thứ tư, Việt Nam đang được hưởng lợi từ tác động của cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung, vì thuế quan cao hơn của Mỹ đối với nhiều loại hàng hóa xuất khẩu của Trung Quốc đã khiến các nhà sản xuất chuyển hoạt động sản xuất hàng xuất khẩu từ Trung Quốc sang các trung tâm sản xuất thay thế ở châu Á.
Thứ năm, nhiều công ty đa quốc gia đã đa dạng hóa chuỗi cung ứng sản xuất của họ trong suốt thập kỷ qua để giảm bớt khả năng bị tổn thương trước sự gián đoạn nguồn cung và các sự kiện địa chính trị. Xu hướng này đã được củng cố thêm bởi đại dịch COVID-19, khi sự gián đoạn kéo dài đã tạo ra sự hỗn loạn trong chuỗi cung ứng toàn cầu cho nhiều ngành công nghiệp, gồm cả ô tô và điện tử. Đa dạng hóa chuỗi cung ứng đã được thúc đẩy hơn nữa bởi sự chậm trễ của chuỗi cung ứng sản xuất mới ở Trung Quốc trong năm 2022, do sự gián đoạn liên quan đến COVID-19 đối với sản xuất và hậu cần ở một số thành phố của Trung Quốc.
Triển vọng kinh tế từ năm 2023 đến năm 2026 là mở rộng kinh tế nhanh chóng, với tốc độ tăng trưởng GDP được dự báo sẽ tăng với tốc độ khoảng 6,5% vào năm 2023, với tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ được duy trì ở tốc độ khoảng 6,7%/năm trong giai đoạn 2024-2026. Tuy nhiên, nền kinh tế Việt Nam phải đối mặt với những rủi ro trong ngắn hạn từ sự chững lại ở các thị trường xuất khẩu chính, đặc biệt là Hoa Kỳ và EU.
Về triển vọng kinh tế trung hạn, nhiều động lực tăng trưởng tích cực đang tạo ra những luồng gió thuận lợi và sẽ tiếp tục là trụ đỡ cho sự tăng trưởng nhanh của kinh tế Việt Nam. Điều này được kỳ vọng sẽ thúc đẩy tăng trưởng mạnh về tổng GDP cũng như GDP bình quân đầu người của Việt Nam.
Với dự báo tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ trong thập kỷ tới, tổng GDP của Việt Nam được dự báo sẽ tăng từ 327 tỷ USD năm 2022 lên 470 tỷ USD vào năm 2025 và tăng lên 760 tỷ USD vào năm 2030. Điều này có nghĩa là GDP bình quân đầu người của Việt Nam tăng trưởng rất nhanh, từ 3.330 USD/năm vào năm 2022 lên 4.700 USD/năm vào năm 2025 và 7.400 USD vào năm 2030, dẫn đến quy mô thị trường tiêu dùng nội địa Việt Nam được mở rộng đáng kể.