Đã phát triển, hầu hết công nghệ phụ thuộc nước ngoài nhưng Việt Nam quyết tạo thay đổi chưa từng có cho một ngành công nghiệp

MT | 12:47 24/09/2025

Việt Nam hướng tới chủ công nghệ đường sắt.

Đã phát triển, hầu hết công nghệ phụ thuộc nước ngoài nhưng Việt Nam quyết tạo thay đổi chưa từng có cho một ngành công nghiệp

Theo Cục Thống kê, đường sắt Việt Nam có một lịch sử khá lâu đời với hơn 140 năm phát triển. Năm 1881, tuyến đường sắt đầu tiên tại Việt Nam và Đông Dương có chiều dài 71 km nối Sài Gòn với Mỹ Tho được khởi công xây dựng.

50 năm sau, kế thừa những kỹ thuật sẵn có và tiếp tục phát triển, đến năm 1936, chiều dài đường sắt đã tăng gấp gần 37 lần, với tổng chiều dài 2.600 km xuyên suốt ba miền đất nước. Là hệ thống đường sắt sớm nhất khu vực Đông Nam Á với năng lực đồng bộ cả về vật chất – kỹ thuật và đội ngũ nhân lực, có những giai đoạn, đường sắt giữ vai trò rất quan trọng, chiếm đến 30% tổng thị phần của ngành giao thông, đóng góp tích cực cho phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng – an ninh của đất nước.

Đến bây giờ, đường sắt của Việt Nam vẫn đang ở nền tảng công nghệ thứ hai, đó là công nghệ diezen (công nghệ đầu tiên là đầu máy hơi nước). Hiện nay, các nước phát triển đang sử dụng công nghệ thứ 3- công nghệ điện khí hóa và công nghệ thứ tư – điện từ.

Tuy nhiên, Việt Nam đang lên nỗ lực thay đổi công nghiệp đường sắt, tạo ra một ngành công nghệ đường sắt “made in Việt Nam”. Theo Cổng thông tin điện tử Chính phủ, Bộ Xây dựng vừa trình Chính phủ dự thảo đề án "Đào tạo, phát triển nguồn nhân lực đường sắt Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045" (Dự thảo Đề án).

Bộ Xây dựng nhìn nhận, ngành đường sắt đang đối mặt với thách thức lớn về nguồn nhân lực khi thiếu hụt về số lượng và chưa đáp ứng đồng bộ về chất lượng, đặc biệt là đội ngũ chuyên gia có khả năng làm chủ công nghệ cao, quản lý dự án phức tạp và vận hành hệ thống đường sắt hiện đại.

Hơn nữa, hầu hết các công nghệ cốt lõi trong ngành đường sắt như thiết kế đầu máy, chế tạo toa xe, hệ thống điều khiển tín hiệu, tự động hóa, điện khí hóa... vẫn phụ thuộc vào nước ngoài, năng lực nội địa hóa còn hạn chế.

"Nếu không có kế hoạch phát triển nhân lực từ sớm, Việt Nam sẽ khó tiếp nhận, làm chủ công nghệ và sẽ tiếp tục phụ thuộc vào nước ngoài trong suốt vòng đời dự án”, Bộ Xây dựng nhấn mạnh.

Theo đó, Bộ Xây dựng đã đưa ra mục tiêu xây dựng đội ngũ nhân lực đường sắt đồng bộ và xác định mục tiêu cụ thể cho từng giai đoạn. Theo đó, giai đoạn 2025-2030, sẽ đào tạo ít nhất 35.000 nhân lực, tập trung đào đạo nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu triển khai các dự án đường sắt tốc độ cao, đường sắt điện khí hóa, đường sắt đô thị và bổ sung nguồn nhân lực giảng dạy cho các cơ sở đào tạo.

Theo trình độ đào tạo: trình độ sau đại học khoảng 1.000 người; trình độ đại học khoảng 14.000 người; trình độ cao đẳng khoảng 11.000 người và trình độ trung cấp khoảng 9.000 người.

Theo nhóm ngành: Kỹ thuật xây dựng công trình đường sắt khoảng 4.700 người; Kỹ thuật xây dựng khoảng 16.300 người; Thông tin - tín hiệu đường sắt khoảng 3.700 người; Hệ thống điện và năng lượng đường sắt khoảng 1.100 người; Đầu máy - toa xe khoảng 1.700 người; Kinh tế xây dựng và kinh tế vận tải đường sắt khoảng 1.500 người; Khai thác vận tải đường sắt khoảng 6.000 người.

Cùng đó, đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho ít nhất 12.000 người đáp ứng yêu cầu vận hành, khai thác, bảo trì các tuyến đường sắt, bao gồm: khoảng 4.500 người cho các tuyến đường sắt quốc gia và khoảng 7.500 người cho các tuyến đường sắt đô thị.

Bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ về quản lý, phát triển và vận hành đường sắt cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, chuyên gia tại cơ quan, đơn vị thực hiện công tác quản lý nhà nước về đường sắt, khoảng 500 lượt người.

Bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ về quản lý dự án đường sắt cho đội ngũ nhân lực làm công tác quản lý dự án, khoảng 1.000 lượt người.

Tuyển chọn ít nhất 1.000 người từ các cơ sở nghiên cứu, doanh nghiệp xây dựng, vận hành và công nghiệp đường sắt tham gia trực tiếp vào quá trình nghiên cứu, tiếp nhận chuyển giao, từng bước làm chủ từng phần công nghệ, công nghiệp đường sắt.

Trong đó: tiếp nhận, chuyển giao quy trình kiểm định kỹ thuật, nghiệm thu và giám sát thi công các dự án đường sắt khoảng 200 người; thi công công trình hạ tầng đường sắt điện khí hóa với tốc độ thiết kế từ 200 km/h trở lên khoảng 100 người; tham gia lắp ráp, cải tiến và sản xuất đầu máy, toa xe khoảng 300 người; lắp đặt, vận hành và bảo trì các hệ thống thông tin, tín hiệu hiện đại khoảng 200 người; tiếp nhận chuyển giao công nghệ bảo trì, sửa chữa lớn đối với đầu máy, toa xe và hệ thống hạ tầng kỹ thuật khoảng 200 người.

Giai đoạn 2031-2045, sẽ đào tạo ít nhất 105.000 nhân lực, tăng cường đào đạo nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu triển khai các dự án và bổ sung nguồn nhân lực giảng dạy cho các cơ sở đào tạo. Tương tự giai đoạn 2025-2030, phân bổ đào tạo theo trình độ; nhóm ngành; bồi dưỡng nghiệp vụ về vận hành, bảo trì; quản lý nhà nước; quản lý dự án.

Đặc biệt, giai đoạn này số lượng nhân lực được tuyển chọn để đào tạo, tham gia trực tiếp vào quá trình nghiên cứu, tiếp nhận chuyển giao, từng bước làm chủ từng phần công nghệ, công nghiệp đường sắt tăng lên là 5.000 người.


(0) Bình luận
Đã phát triển, hầu hết công nghệ phụ thuộc nước ngoài nhưng Việt Nam quyết tạo thay đổi chưa từng có cho một ngành công nghiệp
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO