“Thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ: Hai bên cần nhau”

PV | 11:14 10/04/2025

Theo TS Nguyễn Sĩ Dũng, kinh tế Việt Nam và Hoa Kỳ bổ sung cho nhau, không cạnh tranh với nhau.

“Thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ: Hai bên cần nhau”

Theo Chinhphu.vn, TS Nguyễn Sĩ Dũng cho biết, trong khuôn khổ quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Hoa Kỳ, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã nhiều lần phát biểu rất chân thành và sâu sắc: “Nền kinh tế Việt Nam và Mỹ là hai nền kinh tế bổ sung cho nhau, chứ không cạnh tranh với nhau.” Ông Dũng chi rằng đây không chỉ là một tuyên bố mang tính ngoại giao, mà là một nhận định chính xác, xuất phát từ thực tế và sự hiểu biết thực chất về mối quan hệ kinh tế giữa hai nước.

Theo đó, Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, với lợi thế về lao động dồi dào, giá cả hợp lý và khả năng tham gia hiệu quả vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Trong khi đó, Mỹ là nền kinh tế phát triển hàng đầu thế giới, sở hữu lợi thế tuyệt đối về khoa học công nghệ, thương hiệu toàn cầu và năng lực tạo ra các sản phẩm trí tuệ, phần mềm và dịch vụ giá trị cao. Đây là hai nền kinh tế có cơ cấu khác biệt, trình độ phát triển khác nhau, và vì thế – không đối đầu, không giẫm chân lên nhau, mà bổ sung cho nhau một cách tự nhiên và chiến lược.

Ông Dũng cho rằng, cái gọi là “xuất siêu” của Việt Nam vào Mỹ, nếu nhìn vào giá trị tuyệt đối thì là thực. Nhưng nếu nhìn sâu vào cấu phần giá trị, thì phần Việt Nam giữ lại trong chuỗi giá trị là rất nhỏ. Một đôi giày được bán ở thị trường Mỹ với giá 150 USD, nhưng phần mà Việt Nam được hưởng – chi phí gia công – chỉ khoảng 10 USD. Phần còn lại thuộc về thiết kế, thương hiệu, hệ thống phân phối – những yếu tố nằm hoàn toàn bên ngoài lãnh thổ Việt Nam, thường là trong tay các công ty Mỹ. Trong khi đó, một phần mềm như Windows hay một ứng dụng trên iOS có thể bán hàng triệu lần mà vẫn giữ nguyên giá trị ban đầu – điều mà một sản phẩm vật chất không bao giờ làm được.

“Vì thế, không phải Việt Nam đang hưởng lợi quá mức, mà thực tế là nền kinh tế Mỹ đang hưởng phần lớn lợi nhuận từ chính những sản phẩm mà Việt Nam gia công. Mối quan hệ này là sự chia sẻ lao động và giá trị – trong đó, Việt Nam làm phần việc thủ công, còn Mỹ nắm phần sáng tạo và phân phối. Mỹ không bị thiệt, mà đang được hưởng lợi nhiều hơn trong mối quan hệ này”, ông Dũng nhận định.

Cũng theo TS Nguyễn Sĩ Dũng, Việt Nam không muốn mãi mãi đứng ở vị trí thấp nhất trong chuỗi giá trị. Khát vọng của Việt Nam là được tham gia ở những phân khúc cao hơn – trong thiết kế, trong công nghệ, trong đổi mới sáng tạo. Không phải để cạnh tranh với Mỹ, mà để thoát khỏi vòng lặp làm nhiều – hưởng ít, tiến tới phát triển bền vững, nâng cao chất lượng tăng trưởng và đời sống người dân. Đó là một ước mơ chính đáng, nhưng hiện thực hóa giấc mơ này là điều không dễ và phải có thời gian.

Trong bối cảnh đó, ông Dũng cho rằng việc Mỹ xem xét áp thuế quan cao - lên đến 46% – với một số mặt hàng xuất khẩu từ Việt Nam, dựa trên lý do “xuất siêu”, là điều chưa thật hợp lý. Trước hết, cách tính “xuất siêu” hiện nay chủ yếu dựa vào thống kê hàng hóa hữu hình, chứ chưa tính đến dòng chảy các sản phẩm trí tuệ và dịch vụ số mà Mỹ xuất khẩu vào Việt Nam. Hầu hết người Việt sử dụng máy tính đều phải trả tiền cho phần mềm Microsoft, phần mềm Adobe. Người dùng iPhone ở Việt Nam đều kết nối với các dịch vụ đám mây của Apple. Hàng chục nghìn gia đình Việt đang gửi con du học tại Mỹ, mỗi năm mang theo hàng tỷ đô la Mỹ – một dòng chảy tài chính rất lớn, nhưng không được phản ánh trong cán cân thương mại hàng hóa.

Không chỉ vậy, cũng có ý kiến từ phía Mỹ cho rằng việc áp thuế cao sẽ buộc các công ty Mỹ phải đưa nhà máy trở về nước, tạo việc làm cho người dân Mỹ. Nhưng một chiến lược như vậy, nếu xét kỹ, vẫn còn là dấu hỏi lớn. Trong điều kiện giá nhân công tại Mỹ cao hơn rất nhiều, nếu buộc phải đưa nhà máy về nước, các doanh nghiệp Mỹ có khả năng cao sẽ lựa chọn tự động hóa bằng robot và trí tuệ nhân tạo thay vì tuyển dụng số lượng lớn lao động thủ công. Họ chưa làm điều đó triệt để, chỉ vì hiện nay vẫn đang tối ưu hóa được chi phí nhờ khai thác lao động giá rẻ từ các nước như Việt Nam.

“Thực tế cho thấy, không dễ để người dân Mỹ quay lại với công việc tay chân. Minh chứng rõ ràng là tình trạng thiếu lao động nhập cư đang khiến nhiều ngành sản xuất và dịch vụ tại Mỹ rơi vào khủng hoảng. Vì vậy, chính sách “đánh thuế để tạo việc làm trong nước” không chắc đã mang lại hiệu quả thực chất, trong khi lại tiềm ẩn nguy cơ làm đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu – nơi Mỹ và Việt Nam đều đang là mắt xích quan trọng của nhau”, TS Nguyễn Sĩ Dũng nêu quan điểm.

Bên cạnh đó, theo ông Dũng, cũng có một số hiện tượng cá biệt như việc một vài doanh nghiệp cố tình gắn nhãn “Made in Vietnam” cho hàng nhập từ nước khác, hay vi phạm bản quyền, cũng không nên được lấy làm lý do để áp đặt rào cản thương mại. Đó không phải là chính sách của Nhà nước Việt Nam, mà là hành vi sai trái của một số ít cá nhân. Ở Việt Nam, những hành vi như vậy không chỉ bị pháp luật xử lý nghiêm khắc, mà còn bị xã hội lên án mạnh mẽ. Cũng như việc bạo lực súng đạn xảy ra tại Mỹ – không ai quy kết đó là chính sách của Chính phủ Mỹ – thì những sai phạm thương mại ở Việt Nam cũng không thể được dùng làm căn cứ để làm khó cả một quốc gia.

“Tất cả những điều nêu trên cần được nhìn nhận nghiêm túc và đầy đủ trong tiến trình đàm phán thương mại giữa hai nước. Việt Nam không đòi hỏi đặc quyền, mà chỉ mong muốn một cách tiếp cận công bằng, dựa trên hiểu biết thực chất và tinh thần đối tác chiến lược. Chúng ta bổ sung cho nhau, không cạnh tranh với nhau. Và chỉ khi nhìn nhận đúng vai trò, đóng góp và mong muốn của nhau, hai bên mới có thể cùng thắng trong một thế giới đang vận động không ngừng bởi cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Chân thành là khởi đầu của tin cậy. Hiểu đúng là nền tảng của hợp tác. Cùng thắng là mục tiêu duy nhất xứng đáng cho tương lai”, TS Nguyễn Sĩ Dũng đánh giá.


(0) Bình luận
“Thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ: Hai bên cần nhau”
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO