Đối với nhóm kim loại quý, giá bạc giảm còn 18,48 USD/ounce sau khi đánh mất 2,27% giá trị trong phiên giao dịch hôm qua.
Giá bạch kim cũng có phiên giảm thứ 4 liên tiếp, kết thúc tại mức giá 850 USD/ounce, giảm 1%.
Hàng loạt các quan chức Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) tiếp tục cho thấy quan điểm mạnh mẽ trong vấn đề kiểm soát lạm phát qua các bài phát biểu vào ngày hôm qua.
Chủ tịch Fed Cleveland, Loretta Mester cho biết đối với nền kinh tế Mỹ hiện tại, việc quá nhẹ tay trong công cuộc hạ nhiệt lạm phát sẽ gây ra tổn thất còn lớn hơn so với chính sách mạnh tay thắt chặt tiền tệ.
Trong khi đó, chủ tịch Fed Atlanta, ông Raphael Bostic đã nhấn mạnh về những bất ổn kinh tế tại khu vực Châu Âu và đặc biệt là Vương quốc Anh.
Đồng USD đã tiếp tục khẳng định sức mạnh và vai trò là đồng tiền trú ẩn an toàn khi liên tục thiết lập đỉnh mới trong 2 thập kỷ, đây là nguyên nhân chính đã tạo áp lực tới chi phí nắm giữ bạc và bạch kim và kéo giá suy yếu trong phiên.
Với kim loại cơ bản, áp lực vĩ mô tiếp tục đè nặng lên triển vọng tiêu thụ của nhóm do lo ngại về rủi ro suy thoái ngày càng gia tăng.
Đồng COMEX hiện đã quay trở lại vùng giá thấp nhất kể từ cuối tháng 7 sau khi giảm 1,45% xuống còn 3,29 USD/pound.
Mặc dù nhà sản xuất đồng lớn thứ 10 trên thế giới, Anglo American đã điều chỉnh giảm hướng dẫn sản xuất đồng cho Chile xuống còn 560.000-580.000 tấn so với dự báo trước đó là 560.000-600.000 tấn trong năm nay, đồng thời cắt giảm 20.000-50.000 tấn đồng tại dự án mới Quellaveco ở Peru, song điều đó phần nào cho thấy triển vọng nhu cầu suy yếu và mức giá thấp đang cản trở động lực của các nhà khai thác.
Lăng kính tiêu cực do bức tranh tăng trưởng chậm lại tiếp tục gây áp lực tới giá kim loại cơ bản nói chung và đồng nói riêng.
Trên thị trường nội địa, giá thép hôm nay ngày 27/9 vẫn giữ ổn định sau phiên tăng thứ ba liên tiếp từ 31/8, tăng mạnh nhất gần 900.000 đồng/tấn.
Tổng mức tăng của giá thép sau 3 lần liên tiếp từ 31/8 đến nay là hơn 2 triệu đồng/tấn.
Thép Việt Nhật tăng lần lượt 880.000 đồng/tấn và 470.000 đồng/tấn đối với thép cuộn CB240 và thép thanh vằn D10 CB300. Sau điều chỉnh, giá hai loại thép này lần lượt là 15,02 triệu đồng/tấn và 15,22 triệu đồng/tấn.
Tại khu vực miền Bắc, thép Hòa Phát điều chỉnh tăng 400.000 đồng/tấn đối với thép cuộn CB240, còn thép thanh vằn D10 CB300 giữ nguyên với 15,12 triệu đồng/tấn. Sau điều chỉnh, giá CB240 là 14,82 triệu đồng/tấn.
Với thép Việt Ý, CB240 và D10 CB300 lần lượt tăng 400.000 đồng/tấn và 110.000 đồng/tấn lên 15,12 triệu đồng/tấn và 15,33 triệu đồng/tấn. Về thép Việt Đức, hai loại thép trên tăng 400.000 đồng/tấn và 200.000 đồng/tấn lên 15,12 triệu đồng/tấn và 15,63 triệu đồng/tấn.
Với thép Kyoei, giá CB240 và D10 CB300 theo thứ tự là 15,12 triệu đồng/tấn và 15,38 triệu đồng/tấn sau khi tăng lần lượt 480.000 đồng/tấn và 130.000 đồng/tấn.
Với thép Miền Nam, giá CB240 và D10 CB300 theo thứ tự là 15,43 triệu đồng/tấn và 15,83 triệu đồng/tấn sau khi lần lượt tăng 410.000 đồng/tấn và 200.000 đồng/tấn.
Về thép Thái Nguyên, hai loại trên là 15,2 triệu đồng/tấn và 15,66 triệu đồng/tấn sau khi tăng 580.000 đồng/tấn và 490.000 đồng/tấn.