
Song, theo GS. Nguyễn Đức Khương, Chủ tịch AVSE Global, câu hỏi lớn của Việt Nam không chỉ là tăng trưởng bao nhiêu, mà là sẽ phát triển theo cách nào để đi được đường dài, không đánh đổi ổn định, con người và các giá trị cốt lõi.

Nếu dùng một cụm từ để mô tả kinh tế Việt Nam năm 2025, ông miêu tả như thế nào?
Thích ứng chiến lược. Thế giới hôm nay đang thay đổi mỗi ngày : từ thương chiến, cho tới những toan tính địa chiến lược của các quốc gia siêu cường trong việc cân bằng ảnh hưởng kinh tế.
Trong bối cảnh ấy, Việt Nam đã cho thấy khả năng thích ứng với một môi trường ngày càng dễ vỡ, khó dự báo, phi tuyến tính và biến động trong những khoảng thời gian rất ngắn. Từ việc mở rộng thị trường, phát triển các đối tác mới, cho đến cách phản ứng trước những “cơn phong ba” bất ngờ của kinh tế toàn cầu, năng lực thích ứng chiến lược của Việt Nam đã được thể hiện khá rõ nét.
Tinh thần chủ động ấy không chỉ nằm ở cấp độ chính sách Nhà nước mà còn lan xuống doanh nghiệp. Thay vì chờ đợi chỉ đạo từ Nhà nước, các doanh nghiệp Việt Nam chủ động xem xét mô hình kinh doanh nào phù hợp, những thị trường mới cần tìm đến. Nhiều doanh nghiệp bắt đầu nghĩ đến việc xây dựng những chuỗi cung ứng riêng cho ngành hàng của mình nhằm thích ứng và vươn lên.

Giữ được nền kinh tế ổn định trong một thế giới đầy biến động là điều không dễ. Theo ông, đâu là những yếu tố đã giúp Việt Nam làm được điều đó?
Trước hết là một nền tảng ổn định đã được xây dựng trong nhiều năm. Từ ổn định kinh tế vĩ mô và xã hội, môi trường kinh tế năng động, đến cam kết hợp tác hòa bình đa phương, tất cả tạo nên một không gian an toàn, hấp dẫn cho sinh sống và làm việc.
Tiếp theo là sự linh hoạt của các chủ thể kinh tế xã hội. Trước khó khăn, ít người muốn lùi bước, mà ngược lại tìm cách để tìm lối ra, tìm cách để vươn lên. Nhà nước đóng vai trò dẫn dắt về chính sách, cải cách và thể chế, luôn tìm cách để tạo ra một không gian phát triển rộng hơn. Còn người dân và doanh nghiệp là những chủ thể tự chủ, không trông chờ, không bị động. Chính sự kết hợp này đã góp phần tạo nên nền tảng ổn định của Việt Nam trong một thế giới đầy biến động.
Yếu tố nữa đóng vai trò lớn trong giữ vững ổn định là sự chủ động chiến lược trong thiết lập các quan hệ kinh tế và thương mại quốc tế. Không chỉ phản ứng mà còn định hình cuộc chơi, chủ động nâng tầm các đối tác chiến lược, chủ động hội nhập để trở thành mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng. Đặc biệt, chúng ta đã thúc đẩy da dạng hóa thị trường xuất nhập khẩu nhằm giảm phụ thuộc vào một vài đối tác, hạn chế rủi ro từ biến động địa chính trị.


Năm 2025 có thể xem là năm Việt Nam trải qua hàng loạt cải cách lớn về mọi mặt như sáp nhập địa phương, tinh gọn bộ máy... Theo ông, điều gì khiến cuộc cách mạng này khác với những cải cách trước đây của Việt Nam?
Trong suốt tiến trình từ Đổi mới năm 1986 đến nay, Việt Nam đã trải qua rất nhiều cuộc cải cách, từ kinh tế, thể chế, thị trường cho đến khu vực hành chính, doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp nhà nước. Quy mô nền kinh tế đạt đến hơn 500 tỷ USD theo ước tính năm 2025, tăng nhiều chục lần so với khoảng 6–7 tỷ USD (theo giá hiện hành) vào cuối những năm 1980.
Cải cách lần này như một cuộc cách mạng, sâu, rất rộng và mang tính đa chiều, đi thẳng vào xử lý những nút thắt căn bản của nền kinh tế và thể chế nhằm tạo ra một “bản lề” mới, một khung hình mới cho sự phát triển. Cải cách diễn ra từ Trung ương, tới địa phương. Điều quan trọng hơn cả là những cải cách đó nhận được sự ủng hộ lớn của người dân và doanh nghiệp, với kỳ vọng làm cho cuộc sống của người dân và doanh nghiệp dễ dàng hơn, tạo điều kiện tốt hơn cho con cái họ phát triển, và đặt nền tảng vững chắc cho các thế hệ tương lai.
Các cải cách cũng đang định hình mô hình phát triển mới cho Việt Nam, dựa trên những trụ cột chiến lược: khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; phát triển kinh tế tư nhân; hội nhập và hợp tác quốc tế; cùng với đổi mới, hoàn thiện khung thể chế. Những trụ cột này đã được cụ thể hóa bằng các Nghị quyết quan trọng, đặc biệt là ‘bộ tứ’ gồm các Nghị quyết 57, 59, 66 và 68 của Bộ chính trị.
Nhìn tổng thể lại, Việt Nam đã tích lũy nhiều về lượng, và sẵn sàng cho một “cuộc cách mạng" mang đến sự thay đổi mạnh mẽ về chất. Một “bộ áo mới” tương xứng với tiềm năng và nội lực đang được hình thành, huy động được sức mạnh của cả hệ thống chính trị và sự tham gia, đồng thuận của người dân trong tiến trình cải cách.

Ở góc nhìn quốc tế, Việt Nam có thể học được điều gì từ các mô hình cải cách thành công trên thế giới?
Trong các mô hình cải cách thành công, Singapore mang lại một bài học rất đáng để Việt Nam học hỏi. Khi bắt đầu cải cách vào những năm 1960–1970, ông Lý Quang Diệu đã sớm nhận ra rằng Singapore khó có thể vươn lên nếu không có nguồn lực con người đủ tốt. Từ đó, Singapore lựa chọn con đường xây dựng mình như một Human Capital Nation – một quốc gia phát triển dựa trên nguồn lực con người.
Singapore đầu tư mạnh cho giáo dục và đào tạo, đặc biệt là các lĩnh vực STEM và khoa học – công nghệ, đồng thời xây dựng thể chế để thu hút nhân tài toàn cầu. Khi có nguồn lực con người chất lượng cao, chính con người trở thành một dạng “hạ tầng cứng” cho đổi mới thể chế. Con người tốt tiếp tục thúc đẩy thể chế tốt. Con người đủ năng lực làm chủ sự thay đổi, là động lực để thể chế cải tiến, tạo những khung pháp lý mới, từ trí tuệ nhân tạo, tài sản số cho đến cách hành xử của các chủ thể trong môi trường số hóa.
Bên cạnh Singapore, Hàn Quốc là một hình mẫu đáng chú ý về thành công trên phương diện kinh tế. Hàn Quốc sớm xác định khoa học – công nghệ là trụ cột phát triển, nhưng đi thêm một bước khi gắn khoa học – công nghệ và con người với thương hiệu quốc gia và khát vọng quốc gia. Từ đó hình thành những “doanh nghiệp quốc dân” mang sứ mệnh quốc gia như Samsung, LG hay Hyundai.
Một bài học khác đến từ Pháp. Dù thường bị nhìn nhận là cải cách chậm, Pháp cho thấy cách làm rất chắc chắn. Trước khi ban hành chính sách, họ đánh giá kỹ tác động đến môi trường, xã hội và con người, có cơ chế phản biện để lường trước hệ quả dài hạn. Nhờ đó, nhiều đạo luật có tuổi đời rất dài và tạo được sự đồng thuận xã hội cao.

Nhiều chuyên gia nhận định thế giới đang bước vào giai đoạn tái cấu trúc toàn cầu – xung đột, chiến tranh thương mại, chuyển dịch chuỗi cung ứng. Theo ông, điều này sẽ tác động thế nào tới các động lực phát triển của Việt Nam trong 5–10 năm tới?
Những động lực nào đang mạnh cần tiếp tục phát huy, thúc đẩy quy mô tăng trưởng trong ít nhất 5 năm tới. Trong đó có đầu tư công với các dự án lớn như cảng biển Cần Giờ, sân bay Long Thành; hợp tác công tư trên các dự án như tổ hợp sân vận động, thể thao, giải trí; xuất khẩu, đặc biệt chú trọng về hàng nông sản chất lượng cao.
Nhưng động lực có thể tạo đột phá lớn đến từ việc quy hoạch lại các không gian phát triển đồng bộ và tổng thể ở tầm quốc gia với xương sống huyết mạch là đường sắt tốc độ cao nối Bắc-Trung-Nam. Hoà vào hệ xương sống này là các kết nối nội vùng, nội tỉnh thành bao gồm đường sắt, đường bộ, đường không, và đường thuỷ. Mạng lưới mới giúp giãn dân, cân đối nhà ở, đồng thời tạo ra những khu đô thị TOD, khu kinh tế, thương mại, và sản xuất mới. Đồng thời giúp thử nghiệm các ứng dụng khoa học công nghệ mới.
Động lực đưa Việt Nam ra biển lớn sẽ là một Thương hiệu quốc gia, một Bản sắc Việt Nam mạnh trên trường quốc tế. Điều đó có thể được thể hiện đầu tiên thông qua các ngành hàng, mặt hàng Made in Vietnam, mang dấu ấn Việt Nam. Nói đến sản phẩm Nhật Bản, là nói đến chất lượng hàng đầu, sự tinh tế, và tinh thần làm ra sản phẩm bằng tâm - kỹ - kỷ luật. Nói đến Trung Quốc, từ được mệnh danh là nôi của các sản phẩm giá rẻ, họ tiến đến là nơi “sản phẩm nào cũng có, từ mấu mã phong phú, đến chất lượng không thua kém” với Huawei, Lenovo, BYD, Alibaba.... Việt Nam nên tập trung vào 1 số dòng sản phẩm, định vị ra thương hiệu toàn cầu, ví dụ dịch vụ y tế, chăm sóc sức khoẻ kết hợp với thảo dược và những công nghệ tiên tiến về y sinh.

Nhiều người nói rằng Việt Nam đang ở ngưỡng cửa “thập kỷ quyết định” cho mục tiêu trở thành nước phát triển vào năm 2045. Theo ông, điều gì sẽ phân định ranh giới giữa một nền kinh tế thành công và một nền kinh tế “suýt thành công”?
Trên thế giới hiện nay có nhiều quốc gia có trình độ khoa học – công nghệ rất cao, thậm chí ở mức đỉnh cao. Mỹ, Pháp, Anh, Đức đều là những ví dụ điển hình. Họ đã ứng dụng khoa học – công nghệ để phát triển từ rất lâu. Thế nhưng, các quốc gia này lại không nằm trong nhóm các quốc gia có chỉ số hạnh phúc cao.
Hay như Nhật Bản, quốc gia Châu Á có trình độ phát triển rất cao, nhưng hiện nay lại đối mặt với những vấn đề xã hội nghiêm trọng về tỉ lệ kết hôn, tỉ lệ sinh, hay các vấn đề về áp lực công việc, mức độ tận hưởng cuộc sống.
Đó đều là những mô hình mà trước đây chúng ta từng nhìn vào như hình mẫu của phát triển dựa trên khoa học – công nghệ. Nhưng rõ ràng, những hệ quả xã hội của các mô hình đó là điều Việt Nam cần nhìn thấy trước để tránh lặp lại. Việt Nam không hướng tới một xã hội nơi số đông con người trở nên thụ động, mất dần tư duy phản biện, hay bị cuốn theo công nghệ một cách vô điều kiện.
Nhưng đó phải là một sự phát triển bền vững dài hạn, tạo sự thịnh vượng liên thế hệ. Yếu tố mang tính phân định, là chất lượng cuộc sống của người dân. Phát triển phải đi cùng với cải thiện điều kiện sống, giáo dục cho con trẻ, y tế, môi trường xanh, các hoạt động thể chất, tinh thần.

Một nền kinh tế thành công, theo cách Việt Nam hướng tới, còn phải giữ được các giá trị văn hóa cốt lõi: gia đình, tôn sư trọng đạo, sự gắn kết cộng đồng, tinh thần tương thân tương ái. Đó là những giá trị đã tạo nên sức bền xã hội của Việt Nam qua rất nhiều giai đoạn lịch sử, và không thể đánh đổi chỉ để lấy tốc độ tăng trưởng.
Cuối cùng, khoa học – công nghệ, kể cả những công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo, phải được ứng dụng theo cách gắn với nhu cầu và giá trị của xã hội Việt Nam. Nếu khoa học – công nghệ chỉ giúp một nhóm rất nhỏ giàu lên, trong khi phần lớn người dân mất việc làm, mất cơ hội, thì đó không phải là con đường phát triển mà Việt Nam mong muốn. Công nghệ phải phục vụ con người, chứ không thay thế con người một cách vô cảm.
Theo tôi, ranh giới giữa “thành công” và “suýt thành công” nằm ở chỗ: Việt Nam tăng trưởng nhanh, nhưng không đánh mất con người, chất lượng sống và hạnh phúc; ứng dụng khoa học – công nghệ mạnh mẽ, nhưng không đánh đổi các giá trị xã hội và văn hóa cốt lõi. Chỉ khi làm được điều đó, chúng ta mới có thể nói đến một mô hình phát triển thành công theo đúng bản sắc của Việt Nam.
Xin cảm ơn ông!
Bài: Quỳnh Anh
Thiết kế: Hải An

