
MarketTimes: Theo báo cáo tài chính của 22 ngân hàng thương mại lớn, thu nhập chủ yếu đến từ thu hồi nợ xấu, chiếm đến 66%, và từ mua bán chứng khoán, đầu tư kinh doanh chủ yếu là trái phiếu Chính phủ, chiếm 67%. Trong khi đó, thu nhập từ phí dịch vụ tương đối yếu, bởi vì phí dịch vụ là yếu tố để đánh giá khả năng cho vay. Điều này ảnh hưởng như thế nào đến hoạt động kinh doanh của các ngân hàng trong năm 2025?
Ông Phan Duy Hưng: Nếu nhìn vào tăng trưởng về thu hồi nợ xấu thì đó là tích cực. Bởi vì thị trường bất động sản bắt đầu có sự hồi phục về thanh khoản, nhất là nửa cuối năm 2024. Trong phần thu nhập ngoài lãi, ngoài cơ cấu chính, lợi nhuận vẫn đến từ thu phí, và trong đó chủ yếu là rất nhiều khoản nợ xấu.
Sự phục hồi của thị trường bất động sản là dấu hiệu tốt và giúp cho các ngân hàng, như Ngân hàng TMCP Công Thương (CTG), hoặc một số ngân hàng như VPBank, có thể thu hồi được rất lớn từ nợ xấu.
Ngoài ra, có một khoản liên quan đến lãi từ trái phiếu Chính phủ, hầu hết các ngân hàng ghi nhận lãi lớn từ trái phiếu Chính phủ đều trong quý 4. Tuy nhiên, những khoản lãi này sẽ không bền vững.
Còn đối với mảng thu nhập ngoài lãi, VIS Rating cũng có đề cập rằng thu nhập ngoài lãi trong năm 2025 sẽ tăng trưởng nhẹ, đến từ một số yếu tố: Thứ nhất là sự tiếp tục hồi phục của thị trường bất động sản, giúp cho việc thu hồi nợ xấu và xử lý các khoản nợ xấu tốt hơn; Thứ hai là thu nhập từ hoạt động đầu tư ngân hàng và đầu tư trái phiếu Chính phủ; Thứ ba là hoạt động thu từ Banca sẽ phục hồi, phục hồi nhẹ từ mức đáy năm 2023-2024.

MarketTimes: Như ông đã nói, chất lượng nợ xấu có dấu hiệu cải thiện nhờ vào việc thu hồi nợ xấu. Tuy nhiên, mới đây Chính phủ đã cho phép tăng trưởng tín dụng 16%, do đó, dự kiến sẽ có khoảng 2,5 triệu tỷ đồng được bơm ra thị trường để thúc đẩy GDP. Liệu có lo ngại về chất lượng tín dụng hay rủi ro nợ xấu tiếp tục xảy ra, đặc biệt khi Nghị quyết 42 đã hết hiệu lực hay không?
Ông Phan Duy Hưng: Năm 2025 theo đánh giá của VIS Rating chất lượng tài sản sẽ được cải thiện và được dẫn dắt chủ yếu bởi nhóm ngân hàng quốc doanh và ngân hàng tư nhân lớn.
Nguyên nhân của việc nợ xấu sẽ được giảm dần trong năm 2025 là do trong giai đoạn vừa qua, Chính phủ đã có những chính sách rất quyết liệt để thúc đẩy giải ngân. Đồng thời, mảng FDI và xuất khẩu vẫn tương đối ổn định, dẫn đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong nước cũng sẽ dần được cải thiện nhờ vào những đóng góp từ việc đẩy mạnh đầu tư công vào các ngành nghề chính như xây dựng, sản xuất và thương mại. Những lĩnh vực này sẽ được hưởng lợi từ việc tăng cường đầu tư công và vốn FDI.
Có một ngành lớn nữa đó là ngành bất động sản, từ nửa sau của năm, có rất nhiều chính sách được ban hành để tháo gỡ khó khăn về mặt pháp lý, nhằm tăng cung cho các chủ đầu tư bất động sản.
Còn đối với phần tăng trưởng tín dụng, thật ra nền kinh tế của Việt Nam vẫn phụ thuộc vào kênh ngân hàng. Theo số liệu VIS Rating thống kê, tổng dư nợ tín dụng của ngân hàng chiếm khoảng 130% GDP. Trong khi những thị trường kênh dẫn vốn khác như trái phiếu chỉ chiếm khoảng 11% GDP, điều này dẫn đến việc để thúc đẩy tăng trưởng GDP như kỳ vọng của Chính phủ, ngân hàng vẫn phụ thuộc nhiều vào từ ngân hàng.
Áp lực vốn cho ngân hàng vẫn chủ yếu dựa vào nguồn vốn từ tiền gửi ngắn hạn từ 6 đến 12 tháng. Trong khi đó, để đẩy mạnh tín dụng trong thời gian tới, rất nhiều dự án liên quan đến tín dụng dài hạn và trung hạn sẽ dẫn đến sự mất cân đối về nguồn vốn và tài sản cho vay, đây là một rủi ro.
Tôi thấy trong giai đoạn vừa rồi, tín dụng cũng được đẩy mạnh khá nhiều vào bất động sản. VIS Rating thống kê, tín dụng cho chủ đầu tư bất động sản trong năm vừa rồi tăng khoảng 25-30%, trong khi tín dụng toàn ngành tăng 15%.
Một vấn đề nữa là sự liên kết giữa một số ngân hàng tư nhân với các chủ đầu tư bất động sản lớn rất chặt chẽ. Điều này có thể tạo ra những rủi ro về yếu tố liên quan, có thể tác động đến chất lượng tài sản của một số ngân hàng.
Trong giai đoạn vừa rồi năm 2022, từ vụ việc của SCB, xuất phát từ những mối quan hệ giữa ngân hàng với các tập đoàn lớn liên quan, chủ yếu là trong bất động sản, nguy cơ xảy ra rủi ro mà các công ty xếp hạng tín nhiệm đã đề cập tới ngành ngân hàng.

MarketTimes: Ngoài rủi ro về bất động sản, liệu có những rủi ro nào khác và những tác động tích cực của tín dụng năm 2025 ra sao?
Ông Phan Duy Hưng: Về mặt tích cực, với sự hồi phục của bất động sản, nhu cầu vay, các dự án mới, và cung dự án mới sẽ nhiều hơn, nhu cầu mua nhà cũng sẽ được cải thiện. Với tín dụng của ngân hàng trong năm 2025, hoàn toàn có thể đạt được mức tăng trưởng tín dụng như mục tiêu đặt ra.
Còn về mặt rủi ro, rủi ro đầu tiên đã đề cập là liên quan đến là đẩy mạnh cho vay vào những ngành rủi ro cao và vào những dự án có liên kết chặt chẽ giữa chủ đầu tư với ngân hàng.
Rủi ro thứ hai là về mặt thanh khoản, bởi vì trong giai đoạn vừa rồi, áp lực tỷ giá cũng rất cao, dẫn tới việc Việt Nam có cái bẫy lạm phát, tức là cán cân thanh toán của Việt Nam bị thâm hụt. Khi mình đẩy mạnh cho vay ra, thì buộc phải có phần huy động, tức là có phần phát hành, có phần nguồn vốn. Nhưng với áp lực tỷ giá và dòng vốn bị rút ra, thì dẫn tới cạnh tranh về huy động tiền gửi giữa các ngân hàng sẽ ngày càng gay gắt.
Khi các ngân hàng phụ thuộc quá nhiều vào nguồn vốn ngắn hạn, trong những thời điểm có biến động, ví dụ như áp lực tỷ giá hoặc lãi suất ngân hàng tăng quá mạnh, sẽ dẫn đến thiếu hụt thanh khoản trên thị trường liên ngân hàng. Điều này khiến các ngân hàng nhỏ dễ gặp phải rủi ro về mặt thanh khoản.

MarketTimes: Ông nhận định như thế nào về kịch bản cho sự phát triển của ngân hàng năm 2025?
Ông Phan Duy Hưng: Theo kịch bản VIS Rating nhận định, năng lực tín nhiệm của các ngân hàng nửa cuối năm 2024 đã được phục hồi và năm 2025 sẽ được cải thiện, được dẫn dắt bởi các ngân hàng quốc doanh và ngân hàng tư nhân lớn.
Về chất lượng tài sản, sẽ có sự cải thiện về tỷ lệ nợ có vấn đề. VIS Rating dự phóng sẽ giảm khoảng 5 điểm phần trăm so với năm 2024 và sẽ có sự phân hóa về lợi nhuận.
Tuy nhiên, nhóm ngân hàng quốc doanh và ngân hàng tư nhân lớn có sự cải thiện về chất lượng tài sản rõ rệt hơn, cùng với việc cơ cấu nguồn vốn CASA của họ tốt hơn.
Ngoài ra, với việc chất lượng tài sản cải thiện, chi phí dự phòng của các ngân hàng này cũng sẽ giảm đi, góp phần vào lợi nhuận cuối cùng của các ngân hàng quốc doanh và ngân hàng tư nhân lớn.
Còn với ngân hàng nhỏ, vấn đề đầu tiên là về NIM, về khả năng sinh lời vẫn bị chịu áp lực. Bởi vì họ phải đẩy mạnh cho vay trong khi huy động vốn đang bị cạnh tranh rất nhiều, sắp tới sẽ buộc phải tăng chi phí vốn, chi phí tiền gửi, huy động tiền gửi lên, dẫn tới ảnh hưởng đến lợi nhuận. Cộng thêm chất lượng tài sản của các ngân hàng nhỏ vẫn cần thời gian để phục hồi, dẫn tới chi phí trích lập dự phòng ở mức cao, ảnh hưởng đến lợi nhuận của các nhóm ngân hàng này.
Yếu tố tiếp theo là an toàn vốn. Quy mô vốn của ngân hàng vẫn sẽ ở mức ổn định, không có sự tăng trưởng mạnh. Trong vài năm vừa qua, chúng ta ít thấy các deal về tăng vốn của ngân hàng, chỉ có một vài trường hợp lớn như VPBank. Bên cạnh đó, lợi nhuận của toàn ngành cải thiện nhẹ, nên quy mô an toàn vốn của ngân hàng sẽ giữ ở mức ổn định. Cuối cùng là về mặt cơ cấu nguồn vốn và thanh khoản đối với các ngân hàng nhỏ, rủi ro vẫn còn tiếp diễn.
MarketTimes: Trân trọng cảm ơn ông!