Những vướng mắc pháp lý
Một thực tế là khi tiếp nhận hồ sơ thẩm định giá một máy móc thiết bị mới mà chỉ có thông tin kỹ thuật tương tự như hồ sơ mời thầu, thẩm định viên lập tức đối mặt với một vấn đề khách hàng không thể hoặc không muốn cung cấp thông tin về xuất xứ của tài sản thẩm định giá. Lí do được khách hàng đưa ra là lo ngại rủi ro bị quy chụp là thông thầu hoặc cũng có thể do không muốn thực hiện xây dựng hồ sơ mua sắm tài sản theo đúng quy trình, trình tự.
Quy trình đầy đủ để mua sắm 1 máy móc thiết bị trước hết chủ đầu tư cần xác định được nhu cầu (công năng, công suất) và khả năng tài chính. Nếu không có bộ phận kỹ thuật chuyên môn, chủ đầu tư sẽ phải thuê tư vấn để xây dựng hồ sơ kỹ thuật theo nhu cầu trên cơ sở của các sản phẩm thương mại có sẵn trên thị trường để chủ đầu tư lựa chọn.
Tuy nhiên, tư vấn kỹ thuật có thể không đủ thông tin toàn bộ thị trường nên cần thiết phải đấu thầu để tìm ra sản phẩm khác vừa đạt được thông số kỹ thuật đáp ứng nhu cầu sử dụng đồng thời có giá bán (chào thầu) tiết kiệm chi phí cho chủ đầu tư.
Để đảm bảo cấu hình xây đựng có tính khả thi, tức là phải dựa trên tài sản có sẵn trên thị trường (ngoại trừ trường hợp máy móc thiết bị thuê gia công, đặt đóng theo nhu cầu) tư vấn kỹ thuật phải giới thiệu được sản phẩm cụ thể và giá chào bán để chủ đầu tư cân nhắc lựa chọn.
Để giá có giá đấu thầu không quá cao, chủ đầu tư có thể tự khảo sát, liên hệ với bên bán sản phẩm hoặc thuê dịch vụ thẩm định giá xác định giá trị thị trường của máy móc thiết bị cần mua để hỗ trợ chủ đầu tư quyết định giá gói thầu.
Như vậy, Chủ đầu tư luôn có thông tin về xuất xứ của tài sản trước khi đề nghị thẩm định giá, tuy nhiên khi nghiên cứu luật Đấu thầu, họ lại nhận thấy quy định cấm thông tin mời thầu không được yêu cầu kỹ thuật chỉ một hãng sản xuất cụ thể hoặc việc đưa vào cấu hình đặc thù có tính chỉ định đến một sản phẩm cụ thể trong hồ sơ mời thầu là hành vi bị cấm.
Lo ngại của chủ đầu tư – khách hàng thẩm định giá là nếu tư vấn giới thiệu một sản phẩm cụ thể, thẩm định giá thẩm định theo đúng tài sản đó và cũng là sản phẩm trúng thầu (thậm chí tên doanh nghiệp trúng thầu có trong thông tin tài sản so sánh thu thập được) có thể dẫn đến rủi ro trong giai đoạn hậu kiểm sẽ có nhận định là chủ đầu tư thông thầu từ khâu tư vấn kỹ thuật đến khâu đấu thầu.
Việc tư vấn kỹ thuật, thẩm định giá và hàng hóa trúng thầu đều là một sản phẩm cụ thể không đương nhiên bị quy là thông thầu.
Trong quy định hiện hành thì các tổ chức này đều hoạt động độc lập và tuân theo các quy trình thực hiện khá nghiêm ngặt, hơn nữa, khi thông tin kỹ thuật trong hồ sơ mời thầu không cài các đặc điểm kỹ thuật có tính đặc trưng của một sản phẩm cụ thể thì các sản phẩm tương tự khác đều có thể tham gia chào thầu, các nhà thầu có quyền khiếu nại hồ sơ mời thầu nếu nhận thấy vi phạm quy định. Then chốt của thông thầu là phải chứng minh được sự liên kết, có bằng chứng về sự thông đồng hoặc cấu kết giữa các bên.
Xuất phát từ lo ngại trên, rất nhiều khách hàng thuê dịch vụ thẩm định giá chỉ cung cấp thông tin kỹ thuật cơ bản của tài sản đề nghị thẩm định giá tương tự như trong hồ sơ mời thầu mà không muốn đưa ra xuất xứ của hàng hóa.
Đây là một trong những khó khăn mà người cung cấp dịch vụ thẩm định giá thường mắc phải mất nhiều công sức để thuyết phục khách hàng cung cấp đầy đủ thông tin cần thiết.
Khó thuyết phục khách hàng
Trước đây, theo quy định tại khoản 4 phần II Tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam số 05 Quy trình thẩm định giá (Ký hiệu: TĐGVN 05) Ban hành kèm theo Thông tư số 28/2015/TT-BTC ngày 06/3/2015 của Bộ Tài chính có ví dụ về các thông tin cần thu thập đối với máy móc thiết bị như sau:
“Đối với máy móc, thiết bị: Khảo sát và thu thập số liệu về chỉ tiêu và đặc điểm kinh tế - kỹ thuật, đặc điểm dây chuyền công nghệ, nhà sản xuất, xuất xứ, nhãn hiệu, năm sản xuất, năm đưa vào sử dụng, công suất, quy mô, kích thước, chất liệu, mức độ hao mòn và các đặc điểm khác ảnh hưởng đến giá trị của tài sản thẩm định giá và các tài sản so sánh (nếu có)…”
Tuy nhiên tại khoản a, Điều 6 của Chuẩn mực thẩm định giá Việt Nam về thu thập và phân tích thông tin về tài sản thẩm định giá kèm theo Thông tư số 31/TT-BTC ngày 16 tháng 5 năm 2024 của Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định Các cách thức thu thập thông tin về tài sản thẩm định giá:
“Đề nghị tổ chức, cá nhân yêu cầu thẩm định giá cung cấp đầy đủ và kịp thời các hồ sơ, tài liệu về tài sản thẩm định giá, bao gồm cả tài liệu về quá trình sử dụng, vận hành và khai thác tài sản, các tài liệu về sửa chữa, nâng cấp tài sản (nếu có). Tổ chức, cá nhân yêu cầu thẩm định giá xác nhận bằng văn bản đối với các nội dung thông tin do mình cung cấp;”
Hướng dẫn này dường như chỉ áp dụng vào các trường hợp tài sản thẩm định giá đã qua sử dụng mà không hướng tới quy định thu thập thông tin đối với tài sản là máy móc thiết bị mua mới. Mặc dù tại điểm b khoản 1 điều này có quy định các trường hợp không cần thực hiện khảo sát hiện trạng tài sản: “Tài sản thẩm định giá là máy móc, thiết bị, dụng cụ mới hoặc dịch vụ mà trên bảng danh mục đề nghị thẩm định giá hoặc trên nhãn mác hoặc tài liệu đính kèm đề nghị thẩm định giá có ghi đầy đủ thông tin về đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của tài sản; đồng thời, có các tài sản giống hệt với tài sản thẩm định giá đang giao dịch, mua bán trên thị trường;”
Theo yêu cầu này, đương nhiên thẩm định viên phải có được thông tin về xuất xứ của tài sản thẩm định giá từ khách hàng thẩm định giá mới có thể tìm được tài sản giống hệt trên thị trường.
Tuy nhiên, nội dung này không nằm trong quy định về thu thập thông tin của tài sản thẩm định giá, việc vận dụng hướng dẫn này để nội suy ra yêu cầu cung cấp thông tin của tài sản thẩm định giá phải đầy đủ xuất xứ là không đủ thuyết phục được khách hàng.
Với về thẩm định giá, tài sản luôn có trước và phải cụ thể đầy đủ thông tin để khi khảo sát thông tin thị trường có thể tìm được đúng sản phẩm mà khách hàng muốn thẩm định giá, không bị nhầm lẫn với sản phẩm khác tương tự. Thông tin này quyết định phân khúc thị trường, công nghệ, độ tin cậy và tương ứng với giá trị. Thâm chí một model của cùng một hãng những được sản xuất tại chính hãng hay OEM ở các nước khác nhau cũng có giá khác nhau.
Doanh nghiệp thẩm định giá được quyền sử dụng danh nghĩa của khách hàng để thu thập thông tin thị trường
Trước đây, tại điểm đ, khoản 3 Điều 10 Luất Giá 2013 quy định Hành vi bị cấm trong lĩnh vực giá đối với doanh nghiệp thẩm định giá, chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá quy định cấm: “Tiết lộ thông tin về hồ sơ, khách hàng thẩm định giá và tài sản được thẩm định giá, trừ trường hợp được khách hàng thẩm định giá đồng ý hoặc pháp luật cho phép”
Quy định này đã từng gây khó khăn rất nhiều cho hoạt động thẩm định giá do đối với các hợp đồng thẩm định giá có giá trị lớn và/hoặc tài sản chuyên dùng, hạn chế người mua, việc cung cấp tên dự án, tên chủ đầu tư là bắt bộc khi xin báo giá trên thị trường. Nguyên nhân yêu cầu này các tổ chức phân phối muốn tiếp cận với chủ đầu tư đích thực, tránh báo giá trùng sản phẩm vào cùng dự án, vi phạm thỏa thuận với mạng lưới phân phối hoặc mất công lập báo giá.
Tuy nhiên, đến Luật Giá năm 2023 đã bỏ quy định cấm này, nguyên nhân là việc đấu thầu rộng rãi không giới hạn đối tượng tham gia, việc có càng nhiều nhà cung cấp biết đến dự án mua sắm càng làm kết quả đấu thầu được công khai, minh bạch.
Do đó, trong trường hợp cụ thể, khi ký hợp đồng thẩm định giá cần nêu rõ việc doanh nghiệp thẩm định giá được quyền sử dụng danh nghĩa của khách hàng để thu thập thông tin thị trường, để hỗ trợ cho hoạt động thẩm định giá, đảm bảo thông tin thu thập được có mức độ tin cậy cao, không vướng mắc khi phải mạo danh để thu thập thông tin.
Khả năng áp dụng của các phương pháp thẩm định giá
Dựa trên Chuẩn mực thẩm định giá Việt Nam, thẩm định viên phải cân nhắc kỹ lưỡng khả năng áp dụng của từng phương pháp thẩm định giá phù hợp với đặc điểm của tài sản và điều kiện thu thập thông tin thị trường để đưa ra một hoặc nhiều phương pháp thẩm định giá. Trong trường hợp không có thông tin xuất xứ của tài sản thẩm định giá thẩm định viên sẽ gặp phải các khó khăn trong phân tích, lập luận để thực hiện đúng chuẩn mực thẩm định giá như sau:
Thứ nhất: Phương pháp tiếp cận từ thị trường (phương pháp so sánh): Cách tiếp cận từ thị trường xác định giá trị của tài sản thẩm định giá thông qua việc so sánh tài sản thẩm định giá với các tài sản so sánh đã có các thông tin về giá trên thị trường; trường hợp thẩm định giá doanh nghiệp được sử dụng thêm các thông tin về giá của chính tài sản thẩm định giá
Đây là phương pháp ưu tiên áp dụng vì mức độ tin cậy và trong chuẩn mực thẩm định giá có quy định chỉ cần áp dụng một phương pháp thẩm định giá nếu “Đủ điều kiện để áp dụng phương pháp so sánh theo quy định tại Chuẩn mực thẩm định giá Việt Nam về Cách tiếp cận từ thị trường”.
Tuy nhiên, khi thiếu thông tin về xuất xứ, phương pháp này lập tức vướng mắc khi áp dụng nguyên tắc điều chỉnh quy định tại điểm c khoản 2 Điều 8 Chuẩn mực thẩm định giá Việt Nam về cách tiếp cận từ thị trường kèm theo thông tư số 32/2024/TT-BTC quy định "Thẩm định viên phải phân tích thông tin của tài sản so sánh và điều chỉnh các yếu tố khác biệt để tương đồng với tài sản thẩm định giá.";
Việc phân tích thông tin theo các yếu tố so sánh giữa tài sản thẩm định giá với tài sản so sánh được thực hiện thông qua hình thức “phân tích theo cặp” tức là thẩm định viên phải lấy tài sản thẩm định giá làm chuẩn để so sánh lần lượt với từng tài sản so sánh theo từng yếu tố tác động đến giá trị của tài sản.
Với cấu hình kỹ thuật cơ bản như hồ sơ mời thầu, các tài sản so sánh và tài sản thẩm định giá có thể điều chỉnh được; Tuy nhiên, nếu không có đủ thông tin xuất xứ của tài sản thẩm định giá tức là không có đầy đủ thông tin kỹ thuật đặc trưng của nhà sản xuất (cấm thể hiện trong hồ sơ mời thầu), thẩm định viên không thể so sánh điều chỉnh với các đặc trưng kỹ thuật khác của tài sản so sánh thu thập được để điều chỉnh với tài sản thẩm định giá trong khi các đặc trưng kỹ thuật lại quyết định giá trị của tài sản dẫn đến phải đặt giả thiết đặc biệt để loại trừ, suy giảm nghiêm trọng đến tính chính xác của kết quả thẩm định giá.
Thứ hai: Cách tiếp cận từ chi phí - Phương pháp chi phí: “Cách tiếp cận từ chi phí là cách thức xác định giá trị của tài sản thẩm định giá thông qua chi phí tạo ra một tài sản có chức năng, công dụng giống hệt hoặc tương tự với tài sản thẩm định giá và hao mòn của tài sản thẩm định giá.”
Phương pháp chi phí chỉ phù hợp để áp dụng khi không có đủ thông tin trên thị trường để áp dụng cách tiếp cận từ thị trường và cách tiếp cận từ thu nhập hoặc có dự định tạo ra một tài sản mới hoặc khi thẩm định giá công trình mới được xây dựng hoặc tài sản mới được chế tạo.
Phương pháp này thường được dùng cho các tài sản không có sẵn trên thị trường, phải thuê gia công đặt đóng theo hồ sơ kỹ thuật chi tiết. Trong khi máy móc thiết bị thương mại được sản xuất hàng loạt, chỉ có catalog hướng dẫn sử dụng, giới thiệu công năng, cách sử dụng trong khi điều kiện áp dụng của phương pháp này là phải có đủ hồ sơ kỹ thuật để có thể chế tạo ra tài sản trên cơ sở ước tính chi phí sản xuất (chi phí tái tạo) là không khả thi vì đây là bí mật của nhà sản xuất; do đó thẩm định viên không thể thu thập được đủ thông tin để ước tính được chi phí nguyên vật liệu, công nghệ, nhân công của nhà sản xuất.
Hơn nữa, kết quả cuối cùng chính là việc ước tính giá thành, không phản ánh giá thị trường, phương pháp này chỉ phù hợp với tài sản thuê gia công đặt đóng theo yêu cầu chế tạo phục vụ nhu cầu sử dụng nhất định
Thứ ba: Cách tiếp cận từ Thu nhập - Phương pháp thu nhập: Cách tiếp cận từ thu nhập là cách thức xác định giá trị của tài sản thông qua việc quy đổi dòng tiền trong tương lai có được từ tài sản về giá trị hiện tại
Cách tiếp cận từ thu nhập được áp dụng đối với các tài sản tạo ra thu nhập cho người sở hữu/người sử dụng, có thể dự báo được thu nhập từ tài sản trong tương lai và tính được tỷ suất vốn hóa hoặc tỷ suất chiết khấu phù hợp.
Đây là phương pháp dùng cho tài sản có khả năng sinh lời độc lập trong khi máy móc thiết bị mua sắm thường là không hoạt động độc lập, chỉ tham gia vào một công đoạn nhất định trong dây chuyền sản xuất, không hoạt động độc lập có thể tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh, trực tiếp tạo ra thu nhập. Phương pháp này chỉ phù hợp với máy móc thiết bị là của toàn bộ dây chuyền hoặc dự án, không phải của một thiết bị đơn lẻ.
Bất khả thi nếu tuân thủ đúng các nguyên tắc nghề nghiệp
Từ những phân tích trên, một thẩm định viên giàu kinh nghiệm sẽ nhận ra rằng việc thẩm định giá trong trường hợp này là bất khả thi nếu tuân thủ đúng các nguyên tắc nghề nghiệp.
Trong tình huống này, thẩm định viên có các phương án lựa chọn chuyên nghiệp nhất, phù hợp với quy định pháp luật buộc phải sử dụng khả năng, kinh nghiệm bản thân để thuyết phục khách hàng cung cấp đủ thông tin cần thiết, tức là phải có thông tin xuất xứ của tài sản thẩm định giá để thu thập được đầy đủ thông tin kỹ thuật của tài sản; Trường hợp không thuyết phục được sẽ có 03 phương án để giải quyết:
Một là: Từ chối thực hiện dịch vụ thẩm định giá: Đây là quyết định dũng cảm và chuẩn mực nhất. Thẩm định viên có quyền từ chối dịch vụ khi không có đủ thông tin để đưa ra một kết luận khách quan và đáng tin cậy. Việc từ chối này bảo vệ uy tín của bản thân, của doanh nghiệp thẩm định giá và của cả khách hàng, tránh việc đưa ra một kết quả thiếu chính xác có thể gây hậu quả pháp lý.
Hai là: Chuyển sang cung cấp dịch vụ tư vấn giá trong trường hợp khách hàng vẫn cần một mức giá tham khảo, thẩm định viên có thể đề xuất chuyển sang dịch vụ tư vấn. Khi đó, thẩm định viên sẽ không cấp Chứng thư Thẩm định giá có giá trị pháp lý theo Luật Giá và hệ thống chuẩn mực thẩm định giá hiện hành, mà thay vào đó là một Báo cáo Tư vấn Giá. Báo cáo này sẽ có một loạt các hạn chế như:
Ba là: Sẽ có người cho rằng nếu Khách hàng cố chấp, mặc dù không cung cấp thông tin về xuất xứ của tài sản nhưng vẫn cần một Chứng thư thẩm định giá thì sẽ thông báo tới khách hàng về một loạt các giải thiết đặc biệt theo Điều 10 của Chuẩn mực thẩm định giá Việt Nam về cơ sở giá trị thẩm định giá ban hành kèm theo Thông tư số 30/2024/TT-BTC ngày 16/5/2024 của Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định về Giả thiết và giả thiết đặc biệt, trong đó ghi rõ giả thiết đặc biệt như:
+ Nêu rõ việc thiếu thông tin về xuất xứ đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng xác định giá.
+ Giải thích rõ ràng: Báo cáo cần nhấn mạnh về giá trị ước tính cuối cùng có mức đột in cậy thấp
Trong bối cảnh hiện nay, việc thiếu các quy định chi tiết trong Chuẩn mực thẩm định giá có thể gây ra nhiều vướng mắc trong thực tiễn. Do đó, một thẩm định viên có kinh nghiệm, doanh nghiệp thẩm định giá sẽ tự nhận thức giá trị công sức, rủi ro nghề nghiệp để đưa ra việc từ chối theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 47 và điểm d khoản 1 Điều 53 Luật Giá năm 2023 khi không thể thuyết phục khách hàng cung cấp đầy đủ thông tin hoặc thuyết phục khách hàng chuyển sang sử dụng dịch vụ tư vấn giá là lựa chọn sáng suốt và chuyên nghiệp nhất, thay vì cố gắng đưa ra một kết quả thẩm định giá thiếu căn cứ hoặc có mức độ chính xác quá thấp, không tin cậy.
Bộ Tài chính cần làm rõ trong hệ thống chuẩn mực thẩm định giá
Mặc dù điểm a, khoản 3 Điều 56 của Luật Giá năm 2023 quy định về Nghĩa vụ của khách hàng thẩm định giá, tổ chức, cá nhân có liên quan (nếu có) được ghi trong hợp đồng thẩm định giá được quy định như sau: “Cung cấp đầy đủ, chính xác, trung thực, kịp thời, khách quan thông tin, tài liệu liên quan đến tài sản thẩm định giá theo yêu cầu của doanh nghiệp thẩm định giá và chịu trách nhiệm trước pháp luật về thông tin, tài liệu đã cung cấp;”
Ứng với nghĩa vụ, tại điểm b khoản 2, Điều 56 quy định quyền của khách hàng thẩm định giá, tổ chức, cá nhân có liên quan (nếu có) được ghi trong hợp đồng thẩm định giá được quy định như sau: “Từ chối cung cấp thông tin, tài liệu không liên quan đến hoạt động thẩm định giá, tài sản thẩm định giá;”
Tuy nhiên không có hướng dẫn về yêu cầu “cung cấp đầy đủ” dẫn đến khách hàng thẩm định giá muốn tránh né trách nhiệm, chỉ muốn áp dụng quyền từ chối thay cho nghĩa vụ cung cấp thông tin. Việc thiếu khả năng thuyết phục khách hàng thẩm định giá cung cấp thông tin về xuất xứ của tài sản (đối với MMTB là sản phẩm thương mại mua mới) một phần do quy định của hệ thống chuẩn mực thẩm định giá chưa rõ ràng, chưa đủ sức thuyết phục với Khách hàng thẩm định giá chiến thắng được nỗi sợ hãi trước rủi ro sẽ bị chứng minh hành vi này sẽ dẫn đến một kết luận về thông đồng trong đấu thầu mua sắm.
Đề nghị Bộ Tài chính sớm ban hành văn bản bổ sung, làm rõ quy định này trong hệ thống chuẩn mực thẩm định giá để thẩm định viên về giá khi thực hiện cung cấp dịch vụ thẩm định giá có đủ căn cứ pháp lý khi cần thuyết phục khách hàng cũng cấp đầy đủ thông tin của tài sản thẩm định giá, đảm bảo tính chuyên nghiệp, nâng cao chất lượng dịch vụ thẩm định giá.
* Ông Ngô Gia Cường - Giám đốc Công ty TNHH Thẩm định giá và Giám định Việt Nam (VAI)