GDP quý III/2023 tăng 5,33% và thách thức vẫn còn phía trước

Lê Sáng | 10:53 29/09/2023

Tổng cục Thống kê vừa công bố báo cáo tình hình kinh tế - xã hội Quý III và 9 tháng năm 2023, theo đó, tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý III/2023 ước tính tăng 5,33% so với cùng kỳ năm trước.

GDP quý III/2023 tăng 5,33% và thách thức vẫn còn phía trước
Dù GDP quý III/2023 tăng trưởng ở mức 5,33% nhưng theo các chuyên gia vẫn còn nhiều thách thức để đạt được mục tiêu tăng trưởng năm ở mức 6,5%.

Theo đó, số liệu từ Tổng cục Thống kê cho thất Tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý III/2023 ước tính tăng 5,33% so với cùng kỳ năm trước, mặc dù chỉ cao hơn tốc độ tăng của cùng kỳ các năm 2020 và 2021 trong giai đoạn 2011-2023 nhưng với xu hướng tích cực (quý I tăng 3,28%, quý II tăng 4,05%, quý III tăng 5,33%).

Trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,72%, đóng góp 8,03% vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 5,19%, đóng góp 38,63%; khu vực dịch vụ tăng 6,24%, đóng góp 53,34%.

Về sử dụng GDP quý III/2023, tiêu dùng cuối cùng tăng 3,79% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 40,56% vào tốc độ tăng chung của nền kinh tế; tích lũy tài sản tăng 6,61%, đóng góp 44,92%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 2,27%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 1,42%; chênh lệch xuất, nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ đóng góp 14,52%.

GDP 9 tháng năm 2023 tăng 4,24% so với cùng kỳ năm trước, chỉ cao hơn tốc độ tăng 2,19% và 1,57% của 9 tháng các năm 2020 và 2021 trong giai đoạn 2011-2023. Trong mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,43%, đóng góp 9,16%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 2,41%, đóng góp 22,27%; khu vực dịch vụ tăng 6,32%, đóng góp 68,57%.

Trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, năng suất lúa đông xuân và hè thu đạt khá, sản lượng một số cây lâu năm chủ yếu tăng so với cùng kỳ năm trước, chăn nuôi phát triển ổn định, nuôi trồng thủy sản đạt kết quả khả quan.

Giá trị tăng thêm ngành nông nghiệp 9 tháng năm 2023 tăng 3,42% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 0,29 điểm phần trăm vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; ngành lâm nghiệp tăng 3,13% nhưng chiếm tỷ trọng thấp nên chỉ đóng góp 0,02 điểm phần trăm; ngành thủy sản tăng 3,56%, đóng góp 0,09 điểm phần trăm.

Trong khu vực công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức trong bối cảnh tổng cầu thế giới suy giảm.

Giá trị tăng thêm toàn ngành công nghiệp 9 tháng năm 2023 chỉ tăng 1,65% so với cùng kỳ năm trước, là mức tăng thấp nhất của cùng kỳ các năm trong giai đoạn 2011-2023, đóng góp 0,56 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế.

Trong đó, công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 1,98%, là mức tăng thấp nhất của cùng kỳ các năm trong giai đoạn 2011-2023, đóng góp 0,51 điểm phần trăm. Ngành xây dựng tăng 6,17%, đóng góp 0,42 điểm phần trăm.

Các ngành thương mại, du lịch duy trì đà tăng trưởng cao, đóng góp tích cực vào tăng trưởng của khu vực dịch vụ. Giá trị tăng thêm khu vực dịch vụ 9 tháng năm 2023 tăng 6,32% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn mức tăng 1,87% và mức giảm 0,05% của cùng kỳ các năm 2020 và năm 2021.

Trong khu vực dịch vụ, đóng góp của một số ngành có tỷ trọng lớn vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế như sau: Bán buôn và bán lẻ tăng 8,04% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 0,8 điểm phần trăm; ngành vận tải, kho bãi tăng 8,66%, đóng góp 0,53 điểm phần trăm; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 6,91%, đóng góp 0,4 điểm phần trăm; dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 13,17%, đóng góp 0,33 điểm phần trăm.

Về cơ cấu nền kinh tế 9 tháng năm 2023, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 11,51%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 37,16%; khu vực dịch vụ chiếm 42,72%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 8,61% (Cơ cấu tương ứng của cùng kỳ năm 2022 là 11,47%; 38,49%; 41,29%; 8,75%).

Về sử dụng GDP 9 tháng năm 2023, tiêu dùng cuối cùng tăng 3,03% so với cùng kỳ năm 2022, đóng góp 34,30% vào tốc độ tăng chung của nền kinh tế; tích lũy tài sản tăng 3,22%, đóng góp 19,35%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ giảm 5,79%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ giảm 8,19%; chênh lệch xuất, nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ đóng góp 46,35%.

Còn nhiều thách thức phía trước

Trước thời điểm Tổng cục Thống kê công bố Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội tháng 9 và 9 tháng đầu năm, Ngân hàng UOB của Singapore đã công bố Báo cáo Triển vọng kinh tế quý IV/2023. Trong báo cáo này, UOB đã đưa ra mức dự báo tăng trưởng GDP quý III/2023 là 5,6% so với cùng kỳ. Dù con số này cao hơn đáng kể so với hai quý đầu năm song theo UOB, động lực tăng trưởng của nền kinh tế trong quý 3/2023 vẫn chậm.

Như vậy, với kết quả tăng trưởng GDP quý III/2023 ở mức 5,33% thấp hơn dự báo trước đó của UOB cho thấy nhiều thách thức hơn để đạt được mục tiêu tăng trưởng cả năm 2023 ở mức 6,5%.

Cụ thể, theo UOB, sau khi bắt đầu năm 2023 với tốc độ khá chậm, tốc độ tăng trưởng GDP thực tế trong quý 1/2023 đã giảm xuống 3,28% so với cùng kỳ, từ mức 5,92% trong quý 4/2022, đà tăng trưởng của Việt Nam vẫn chưa phục hồi mạnh, phần lớn là do nhu cầu bên ngoài suy yếu cùng với lĩnh vực sản xuất chưa thực sự khởi sắc. Do đó, tăng trưởng kinh tế trong quý 2/2023 chỉ tăng 4,14% so với cùng kỳ, đạt tốc độ tăng trưởng lũy kế là 3,72% so với cùng kỳ trong nửa đầu năm 2023, thấp hơn nhiều so với mức 6,46% trong nửa đầu năm 2022 cũng như mục tiêu tăng trưởng chính thức là 6,5%.

Nhìn xa hơn vào những kết quả này, UOB cho rằng triển vọng trong thời gian còn lại của năm có thể sẽ gặp nhiều thách thức vì những dữ liệu mới nhất được công bố chưa thật sự ấn tượng. Chỉ số quản lý mua hàng (PMI) của Việt Nam đã quay trở lại mức trên 50 vào tháng 8 năm 2023 sau 5 tháng giảm liên tiếp (dưới 50) và mức thấp nhất (45,3 vào tháng 5) kể từ tháng 9 năm 2021 và là quốc gia có chỉ số kém nhất ở châu Á vào thời điểm đó. Tuy nhiên, PMI của Việt Nam đã kém hơn PMI chung của khu vực ASEAN trong tháng thứ 12 liên tiếp.

Xuất khẩu của Việt Nam đã giảm 9 trong 10 tháng qua (tháng 8 năm 2023: giảm 8,5% so với cùng kỳ) trong khi nhập khẩu chứng kiến 10 tháng giảm liên tiếp (tháng 8 năm 2023: giảm 5,8% so với cùng kỳ). Nhu cầu bên ngoài suy yếu được thể hiện qua xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ (thị trường lớn nhất chiếm 28% tổng xuất khẩu), đã giảm 9 tháng trong 10 tháng qua (tháng 8 năm 2023: giảm 9,4%).

Về các các yếu tố rủi ro, UOB cho rằng cần phải theo dõi sát sao các yếu tố như xung đột Nga-Ukraine và tác động của nó đối với giá năng lượng, lương thực và hàng hóa; sự thay đổi và gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu; và tốc độ phục hồi kinh tế của Trung Quốc.

Về mặt lạm phát, cả chỉ số giá tiêu dùng (CPI) toàn phần và cơ bản của Việt Nam đều có xu hướng thấp hơn mục tiêu chính thức là 4,5%. Tuy nhiên, sự phục hồi trong 2 tháng của chỉ số CPI toàn phần sau xu hướng giảm kéo dài 6 tháng (tháng 8: tăng 2,96% so với cùng kỳ) cho thấy áp lực tăng giá vẫn là mối lo ngại, đặc biệt là với những đợt tăng giá dầu thô gần đây. Từ đầu năm cho đến tháng 8, lạm phát toàn phần của Việt Nam tăng khoảng 3,1% so với cùng kỳ, cao hơn mức 2,6% của cùng kỳ năm 2022.

“Trong cả năm, chúng tôi nhận thấy áp lực lạm phát của Việt Nam sẽ có rủi ro gia tăng”, UOB dự báo.

Trước tình hình kinh tế còn nhiều khó khăn, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã phản ứng nhanh chóng bằng cách cắt giảm lãi suất tái cấp vốn tích lũy 150 điểm cơ bản vào tháng 6 năm 2023, xuống còn 4,50%. Mặc dù vậy, vẫn có khả năng ngân hàng sẽ có thêm đợt cắt giảm lãi suất thêm 100 điểm cơ bản nữa (xuống 3,50%), nhưng thời gian được chuyển sang quý 4/2023 để cân bằng giữa tăng trưởng và áp lực lạm phát.

Cùng với đó, sau khi ổn định quanh mức 23.500 trong phần lớn nửa đầu năm 2023, tỷ giá USD/VNĐ đã tăng mạnh trong quý 3/2023, bắt kịp các biến động của tỷ giá USD/CNY và giao dịch lên mức cao nhất từ đầu năm đến nay là gần 24.400. Theo UOB, sự giảm giá của VNĐ phản ánh thực tế diễn biến kinh tế Việt Nam và xu hướng nới lỏng tiền tệ của Cơ quan quản lý.

Với diễn biến này, ngân hàng của Singapore vẫn duy trì quan điểm đồng VNĐ sẽ diễn biến theo sát biến động của các đồng tiền Châu Á, với tỷ giá USD/ VNĐ duy trì ở mức cao trong quý 4/2023 trước khi giảm xuống mức thấp hơn bắt đầu từ quý 1 năm 2024.

“Dự báo USD/ VNĐ cập nhật của chúng tôi là 24.500 trong quý 4/2023, 24.000 trong quý 1/2024, 23.800 trong quý 2/2024 và 23.600 trong quý 3/2024”, UOB cho biết.

Bài liên quan

(0) Bình luận
GDP quý III/2023 tăng 5,33% và thách thức vẫn còn phía trước
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO