Dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải, sáng 10/6, Quốc hội thảo luận về chủ trương đầu tư dự án đường Vành đai 4 vùng Thủ đô Hà Nội và dự án đường Vành đai 3 TP. Hồ Chí Minh.
Tăng tính kết nối
Về cơ bản, các đại biểu đã nhất trí cao với Tờ trình của Chính phủ và Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Kinh tế về dự án đường Vành đai 4 vùng Thủ đô Hà Nội. Đồng thời, các đại biểu đã phân tích những lợi ích mà dự án này mang lại.
Theo đại biểu Quốc hội Nguyễn Đại Thắng (Hưng Yên), việc đầu tư dự án đường Vành đai 4 sẽ góp phần cải thiện năng lực cạnh tranh không chỉ của TP. Hà Nội mà còn của các tỉnh, thành phố liên quan trong vùng Thủ đô và cả nước nói chung. Tạo ra không gian phát triển mới cho Hà Nội và vùng Thủ đô, kết nối các đường quốc lộ, cao tốc hướng Đông, gia tăng kết nối liên vùng, tạo sự phát triển kinh tế - xã hội đồng bộ trong khu vực. Từ đó, một hành lang kinh tế rộng khắp sẽ mở ra, lấp đầy khoảng trống về địa lý, hình thành các liên kết kinh tế gắn bó chặt chẽ từ miền núi đến đồng bằng.
Đại biểu Nguyễn Đại Thắng cho rằng, dự án đường Vành đai 4 Thủ đô Hà Nội được chia thành 7 dự án thành phần do các địa phương quyết định đầu tư, đã xác định rõ nguồn vốn để thực hiện và tổ chức triển khai. Các địa phương trong vùng dự án đã cam kết bố trí đủ nguồn lực theo phân cấp để đầu tư dự án. Việc chia nhỏ các dự án thành phần, kêu gọi hợp tác công tư, giao cho các địa phương thực hiện theo hình thức "cuốn chiếu" là giải pháp cơ bản để bảo đảm nguồn vốn, rút ngắn tiến độ dự án.
Tham gia thảo luận về chủ trương đầu tư dự án đường vành đai 3 TP. Hồ Chí Minh, đại biểu Quốc hội Nguyễn Thanh Hải (Long An) đánh giá, dự án này không chỉ góp phần cải thiện năng lực cạnh tranh của nền kinh tế thành phố, các tỉnh trong Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, mà còn giúp hoàn thiện kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội của khu vực và cả nước.
Dự án này khi hoàn thành sẽ giúp tăng cường khả năng kết nối giao thông giữa các tỉnh, thành trong vùng, phù hợp với quy hoạch mạng lưới đường bộ quốc gia; góp phần giảm thiểu quá tải về hạ tầng giao thông tại các khu vực cửa ngõ và nội đô TP. Hồ Chí Minh; tăng cường kết nối đô thị vệ tinh, phát huy hiệu quả lợi thế của các tỉnh; phát triển dịch vụ vận tải liên vùng và góp phần cải thiện năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Về phạm vi đầu tư và phương án phân chia các dự án thành phần và phương án bố trí vốn, đại biểu Nguyễn Thanh Hải nhất trí cao với việc phân chia các dự án thành phần để triển khai thực hiện, đặc biệt là công tác bồi thường, hỗ trợ tái định cư riêng với phần đầu tư xây dựng đường vành đai và đường song hành thành các dự án độc lập theo địa giới hành chính giữa các địa phương. Điều này sẽ tạo điều kiện cho các địa phương được chủ động hơn và đẩy nhanh tiến độ triển khai thực hiện dự án.
Chú trọng năng lực quản lý dự án và nhà thầu
Liên quan đến vấn đề triển khai dự án, đặc biệt là quỹ đất dọc theo tuyến dự án, đại biểu Quốc hội Tạ Thị Yên (Điện Biên) đề nghị, do 2 tuyến đường sẽ mở ra nhiều quỹ đất, nhất là tại các nút giao cắt với hệ thống giao thông hiện hữu, nên việc quản lý, bán đấu giá quyền sử dụng đất, quản lý quy hoạch, xây dựng cần làm hết sức chặt chẽ, bảo đảm đúng theo quy định của pháp luật.
Bên cạnh đó, trong thiết kế dự án, cần chú ý tới tính kết nối với các đô thị vệ tinh, các trung tâm công nghiệp đã hình thành, với các tuyến giao thông hiện hữu nên cần phải có đường song hành, hầm chui dân sinh đủ để bảo đảm việc đi lại, làm ăn của người dân. Trong thi công thì cần có biện pháp bảo đảm việc đi lại, sinh sống và hoạt động bình thường của người dân, doanh nghiệp, vấn đề bảo vệ môi trường.
Đại biểu Tạ Thị Yên nhấn mạnh, vấn đề quan trọng là chú ý tới năng lực quản lý dự án và năng lực của nhà thầu. “Kinh nghiệm từ dự án vành đai 2 TP. Hồ Chí Minh được quy hoạch và thực hiện cách đây 15 năm, dài 64 km, nhưng đến nay vẫn còn 14 km chưa khép kín, chia làm 4 đoạn. Chỉ riêng đoạn 3 dài 2,7 km mà việc triển khai từ năm 2017 đến nay vẫn còn dang dở. Nguyên nhân chủ yếu là do thiếu vốn và giải phóng mặt bằng chậm", đại biểu Tạ Thị Yên chỉ rõ.
Thời gian qua, thực tế các địa phương khi thu hồi đất, đền bù giải phóng mặt bằng, hỗ trợ tái định cư để thực hiện các dự án quan trọng, có sự chênh lệch về mức giá đền bù, đặc biệt là ở những vùng giáp ranh giữa hai địa phương, dẫn đến tình trạng dự án bị ách tắc, tiến độ chậm trễ, làm phát sinh nhiều khiếu kiện kéo dài, gây bức xúc trong nhân dân. Việc này đã diễn ra nhiều năm, ở nhiều địa phương.
Từ thực tế này, đại biểu Tạ Thị Yên đề nghị, Chính phủ cần có hướng dẫn, chỉ đạo chung cho các địa phương thực hiện thống nhất phương án áp dụng mức giá đền bù phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi cho các địa phương giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình giải phóng mặt bằng.
Trước mắt áp dụng thí điểm cho các dự án trọng điểm quốc gia đã được Quốc hội thông qua từ đầu nhiệm kỳ đến nay. Đồng thời, có giải pháp và cơ chế, chính sách thỏa đáng, bố trí tái định cư cho các hộ dân có đất bị thu hồi bảo đảm có cuộc sống ổn định, chất lượng phải tốt hơn hoặc ít nhất là bằng nơi ở cũ, tránh tình trạng khi thu hồi đất xong thì người dân không có chỗ ở, thiếu đất để canh tác, sản xuất, kinh doanh, việc làm...
Đại biểu Tạ Thị Yên cũng đề nghị Chính phủ xây dựng cơ chế thưởng phạt nghiêm minh, kịp thời đối với các địa phương, Bộ ngành có liên quan trong việc cam kết tổ chức thực hiện, trách nhiệm về việc bảo đảm tiến độ, chất lượng của dự án.