Triển vọng nền kinh tế năm 2026 sẽ diễn ra như thế nào và thị trường chứng khoán sẽ ra sao trong năm 2026? Trao đổi về vấn đề này trong Talk show Phố Tài chính (The Finance Street Talk Show) trên VTV8, các chuyên gia cho rằng, dù còn những thách thức nhất định nhưng với những nền tảng đã đạt được trong năm 2025, nền kinh tế và thị trường chứng khoán trong năm 2026 được dự báo sẽ tiếp tục đi lên cùng nhiều kỳ vọng tích cực.
Chỉ còn ít ngày nữa sẽ kết thúc năm 2025, ông đánh giá nền kinh tế và thị trường chứng khoán Việt Nam đã có một năm như thế nào ạ?
TS. Trần Thăng Long, Giám đốc Phân tích, Công ty CP Chứng khoán BIDV (BSC): Về kinh tế vĩ mô của năm 2025, tôi thấy rằng với tốc độ tăng trưởng như hiện tại của quý 4/2025 nhiều khả năng, chúng ta sẽ có GDP trên 8% vào cuối năm nay, sẽ đạt được chỉ tiêu đề ra.
Và điều này có được là nhờ trong năm vừa rồi, một số những cấu phần của tăng trưởng vẫn đang hoạt động khá tốt, đặc biệt, kim ngạch xuất nhập khẩu đã tăng trưởng hai con số, ước đạt trên 15% so với cùng kỳ. Trong khi đó, khối tiêu dùng đã có sự phục hồi so với cả hai năm trước đây và tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng duy trì trong ngưỡng 9% -10%. Tốc độ giải ngân đầu tư công tại các dự án trọng điểm quốc gia được đẩy mạnh.
Song hành với đà tăng trưởng, các cân đối vĩ mô vẫn được duy trì ổn định khi chỉ số CPI bình quân 11 tháng đầu năm 2025 được kiểm soát tốt ở mức 3,29%, tạo dư địa điều hành chính sách tiền tệ. Trong khi đó, chúng ta có thể thấy sự đảo chiều kỳ vọng của các tổ chức từ tâm lý thận trọng đầu năm, đơn cử như HSBC, Standard Chartered, UOB… đã điều chỉnh tăng dự báo GDP Việt Nam lên mức 7,5% - 7,9% để bắt kịp đà bứt phá của nền kinh tế vào cuối năm. Bên cạnh đó, chúng ta có thể thấy, lạm phát vẫn đang duy trì ở một mức tương đối tốt, khoảng trên 3,2%, ở mức khá xa so với ngưỡng đầu năm đặt ra, khoảng từ 4% - 4,5%.
Về thị trường chứng khoán năm 2025, chúng ta ghi nhận sự bứt phá, khi đồng thời thiết lập các kỷ lục mới cả về điểm số và quy mô dòng tiền. Cụ thể, chỉ số VN-Index đã duy trì đà tăng trưởng tích cực, chính thức chinh phục thành công mốc 1.600 điểm và có những phiên giao dịch quanh mốc 1.780 điểm, nếu so với các thị trường chứng khoán trên thế giới thì đó cũng là một mức tăng khá tốt.
Đà tăng này được hỗ trợ bởi nền tảng cơ bản vững chắc khi tốc độ tăng trưởng EPS của các doanh nghiệp niêm yết được cải thiện rõ rệt, kết hợp với hiệu ứng và triển vọng nâng hạng thị trường đã củng cố tính bền vững của xu hướng tăng trưởng của TTCK. Với mức tăng trên 30% tính đến 12/12/2025, TTCK Việt Nam năm 2025 có một năm tăng trưởng mạnh, cùng với sự cải thiện mạnh về thanh khoản. Tuy nhiên đà tăng phụ thuộc vào một nhóm cổ phiếu nhất định, cũng đặt ra câu hỏi về khả năng tăng trưởng bền vững nói chung và hiệu quả đầu tư của nhà đầu tư nói riêng.
Bước sang năm 2026 tới đây, nền kinh tế được dự báo sẽ còn tăng trưởng từ 10% trở lên, lạm phát mục tiêu có tăng nhưng sẽ không đáng kể, theo ông, đâu là những cơ sở để Việt Nam có thể đạt được những mục tiêu này?
TS. Trần Thăng Long: Chỉ tiêu Việt Nam đã đề ra, thực ra là khá tham vọng khi Quốc hội giao mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2026 của Việt Nam đạt từ 10% trở lên. Đây là mục tiêu ngắn hạn trong mục tiêu dài hạn hơn, là tăng trưởng GDP giai đoạn 2026 - 2030, có thể đạt hai con số, hướng đến Việt Nam trở thành nước có thu nhập cao vào năm 2045.
Trong bối cảnh thương mại sẽ có diễn biến chậm lại do thuế quan, việc khai thác triệt để nguồn lực trong nước trở thành ưu tiên hàng đầu. Chúng ta thấy rằng, để một quốc gia với quy mô nền kinh tế đã xấp xỉ 500 USD như Việt Nam tăng trưởng với tốc độ 8% - 10% một năm, thực sự, không có nhiều những trường hợp như vậy trong lịch sử thế giới. Và khi quốc gia mà đạt được tốc độ tăng trưởng như vậy, thường thì, động lực trong những năm đó hoạt động rất tốt, rất mạnh.
Vậy chúng ta có những động lực gì? Có hai nhóm động lực chính mà chúng ta rất quan tâm. Thứ nhất là những chính sách liên quan đến tài khóa, liên quan đến yếu tố đầu tư công, chắc chắn là những thứ Việt Nam sẽ cần phải đẩy mạnh. Cụ thể ở đây chính là đẩy mạnh giải ngân đầu tư công. Bên cạnh các dự án vẫn đang giải ngân như các dự án thành phần của Cao tốc Bắc - Nam, Đường Hồ Chí Minh, Đường sắt đô thị tại Hà Nội và TP.HCM,… cũng có một số dự án trọng điểm đang được lên kế hoạch khởi công trong thời gian tới, ví dụ như đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam, đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng,…
Bên cạnh đó, những yếu tố khác mà chúng ta kỳ vọng đến, tôi nghĩ cũng rất quan trọng. Ví dụ như tăng thu Ngân sách Nhà nước để lấy nguồn phục vụ các động lực; quản lý thuế triệt để, hiệu quả. Đây cũng là những yếu tố mà liên quan mật thiết đến sức khỏe nội sinh của toàn bộ các thành phần của nền kinh tế và ở đây, như Nghị quyết 68 đã đưa ra, chúng ta hướng đến một nền kinh tế xem trọng những khối doanh nghiệp tư nhân và tôi nghĩ, đây cũng là một điều đã khiến các quốc gia khác thành công trong giai đoạn tăng trưởng trước đây và chúng ta có thể tham khảo để có thể kích thích được các nhóm này tăng trưởng mạnh mẽ, làm động lực cho kinh tế Việt Nam trong tương lai.
Không chỉ có vậy, những chính sách liên quan đến thuế cũng cần được minh bạch hóa, chuyển những cấu phần từ kinh tế ngầm sang kinh tế chính thức qua các giải pháp chuyển đổi hộ kinh doanh lên doanh nghiệp, cơ chế khoán sang kê khai. Các động lực tăng trưởng mới từ kinh tế xanh, tuần hoàn, số, trung tâm tài chính,…, tái định cư một số khu vực để sử dụng đất hiệu quả hơn. Qua đó, ta có thể thấy, đây mới là những động lực lâu dài nhất cho sự tăng trưởng của Việt Nam, có thể là 10% trong năm sau hoặc cũng có thể là những năm tiếp theo vẫn sẽ duy trì được tốc độ tăng trưởng nhanh như vậy.
Thực tế như ông chia sẻ, vẫn còn những thách thức phía trước như những bất ổn địa chính trị ở trên thế giới, những lo ngại về cuộc chiến thương mại rồi trong nước cũng có những thách thức tiềm ẩn về lãi suất, lạm phát. Ông đánh giá như thế nào về những thách thức này?
TS. Trần Thăng Long: Sang năm 2026, tôi cho rằng áp lực lạm phát sẽ tăng hơn một chút. Tuy nhiên yếu tố quan trọng nhất đối với rổ lạm phát Việt Nam là giá lương thực, thực phẩm, xăng dầu, chúng tôi dự báo không có những đợt tăng đột biến do nguồn cung và giá quốc tế ổn định.
Lạm phát lõi Core CPI duy trì sự ổn định, chỉ tăng 3,28%; lạm phát Headline CPI tăng 3,58% do bị ảnh hưởng bởi thời thiết khắc nghiệt, do đó chúng tôi cho rằng đây chỉ là tác động nhất thời.
Rủi ro về lạm phát nhập khẩu của Việt Nam là tương đối thấp, khi đối tác thương mại nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam là Trung Quốc vẫn đang trong tình trạng giảm phát. Ngoài ra, giá dầu thế giới duy trì ở mặt bằng giá thấp và nhiều khả năng sẽ giảm trong năm tới khi OPEC+ có ý định gia tăng nguồn cung.
Đối với cấu phần nhà ở và vật liệu xây dựng, đã tăng lên trong thời gian gần đây khi Chính phủ thúc đẩy giải ngân đầu tư công, nhưng nguồn cung nguyên vật liệu bị hạn chế, như đá, cát, sỏi,… không có mỏ mới. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng vấn đề này, Chính phủ có thể kiểm soát tốt. Nhìn tổng thể sang năm 2026, chúng tôi cho rằng, áp lực ngoại cảnh đối với lạm phát là tương đối thấp.
Bên cạnh đó, tôi cũng nhất trí với ý kiến, chúng ta còn những thách thức phía trước bởi nhiều yếu tố bất định từ bên ngoài. Chúng ta có thể thấy thấy, căng thẳng địa chính trị đã hạ nhiệt ở nhiều khu vực như Ukraine - Nga và Trung Đông, tuy nhiên lại xuất hiện những vấn đề khác tại Trung Quốc hay Nhật Bản.
Thứ hai là yếu tố thương mại toàn cầu, rủi ro đã hạ nhiệt đáng kể. Bước vào năm 2026, là thời điểm bầu cử giữa nhiệm kỳ tại Mỹ, nhiều khả năng các chính sách của Tổng thống Mỹ Donald Trump sẽ ôn hòa hơn, hướng đến thúc đẩy kinh tế hơn. Tuy nhiên, với việc thuế quan vẫn là một công cụ yêu thích của Tổng thống mỹ Donald Trump, dòng chảy vốn và thương mại trên toàn cầu sẽ vẫn giữ một tinh thần cảnh giác cao. Riêng với Việt Nam, chúng ta vẫn còn tiềm ẩn rủi ro về sự chưa rõ ràng trong định nghĩa Transshipment (trung chuyển), chính vì vậy, những yếu tố có thể gây bất ngờ về mặt xuất khẩu hay về mặt chính sách vẫn có thể xảy ra.
Ngoài ra, trong nhiều năm vừa qua, nguồn cung ứng vốn lớn nhất cho nền kinh tế của Việt Nam vẫn đến từ các ngân hàng thương mại. Theo dữ liệu của SBV tính đến tháng 9/2025, tỷ lệ Tổng dư nợ/Tổng tiền gửi của Việt Nam đạt mức 1.095, đây là mức cao nhất trong 10 năm nay. Khoảng cách giữa Tổng dư nợ - Tổng tiền gửi là gần 1,6 triệu tỷ đồng, cho thấy áp lực thanh khoản trên hệ thống là lớn. Với việc nền kinh tế Việt Nam gần như phụ thuộc vào nguồn vốn tín dụng, cầu tiền dâng cao, trong khi thanh khoản không dồi dào sẽ khiến cho mặt bằng lãi suất khó có thể giữ ở mức thấp. Và khi mặt bằng lãi suất có sự tăng lên, sức ép lên chính sách hay sức ép về mặt tỷ giá cũng là một yếu tố cần phải lưu tâm.
Trong bối cảnh đó thì thị trường chứng khoán năm 2026 được dự báo như thế nào?
TS. Trần Thăng Long: Thực ra, năm vừa qua cũng là một năm mà chúng ta thấy rằng, thị chứng khoán Việt Nam có rất nhiều những sự thay đổi. Chúng ta đã nâng cấp thành công hệ thống KRX vào tháng 5, sau đó, được nâng hạng lên thị trường chứng khoán mới nổi thứ cấp bởi tổ chức FTSE Russell.
Mặc dù, sẽ cần chờ thêm một năm nữa để có được quyết định chính thức, nhưng điều đó thực sự cũng đã phản ánh được sự thay đổi nhiều về mặt chất lượng của thị trường chứng khoán Việt Nam, cũng như thể hiện được sự nỗ lực của các cơ quan quản lý và các thành viên thị trường về việc xây dựng một thị trường minh bạch hơn và thanh khoản hấp dẫn hơn với nhà đầu tư nước ngoài, và để chúng ta xứng đáng ở một vị trí cao hơn trong bảng xếp hạng các thị trường toàn cầu.
So sánh tương quan mức định giá và tiềm năng tăng trưởng của TTCK Việt Nam và các quốc gia khác, ta có thể thấy, theo đánh giá dự phóng từ Bloomberg, 2 chỉ số P/E và EPS growth 2026 của TTCK Việt Nam xét theo các bộ chỉ số đều ở mức hấp dẫn và cạnh tranh hơn so với phần lớn các quốc gia khác trong khu vực. Nếu đặt lên bàn cân với TTCK Hàn Quốc, Đài Loan (Trung Quốc) và Indonesia thì họ có mức dự phóng hấp dẫn hơn Việt Nam; tuy nhiên nếu đặt trong bối cảnh chính sách thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cộng thêm với việc bắt đầu hiện thực hóa lộ trình nâng hạng của FTSE trong 2026, TTCK Việt Nam vẫn có mức hấp dẫn lớn đặc biệt hơn.
Không chỉ có vậy, theo dự báo thị trường chung trên rất nhiều tiêu chí khác nhau của BSC Research, về cơ bản dự báo về tăng trưởng, về lợi nhuận của doanh nghiệp niêm yết, vẫn sẽ rơi vào khoảng từ 18% cho đến 20%, cũng là một mức khá tốt so với mọi năm. Điều này đến từ những kỳ vọng.
Thứ nhất, mặt bằng lãi suất tiếp tục duy trì ở mức hợp lý tạo dư địa cho dòng tiền hướng đến TTCK. Thứ hai, nhà đầu tư trong nước, đặc biệt là nhà đầu tư cá nhân sẽ tiếp tục là động lực chính trên thị trường, đặc biệt sẽ hoạt động tích cực khi lộ trình chuyển đổi nâng hạng bắt đầu được thực thi vào Q3/2026. Thứ ba là kỳ vọng về các cải cách, sản phẩm mới được triển khai trên thị trường; Thứ tư là nỗ lực thực thi các cải cách theo Đề án nâng hạng TTCK - nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư nước ngoài tham gia thị trường, hệ thống giao dịch mới, mô hình CCP cho TTCK cơ sở…
Ngoài ra, số lượng tài khoản mở mới tiếp tục gia tăng ở các kịch bản khi chứng khoán đang tiếp tục khẳng định là một kênh đầu tư hấp dẫn hơn so với kênh gửi tiết kiệm, bên cạnh đó là nỗ lực của cơ quan quản lý, các thành viên thị trường trong việc phổ cập kiến thức tài chính đến thế hệ trẻ - tầng lớp có khả năng tiếp cận công nghệ mới và sẵn sàng tìm kiếm các cơ hội sinh lời hấp dẫn.
Và với một thị trường như vậy, chúng ta có quyền kỳ vọng rằng, những điều trên cũng sẽ phản ánh phần nào vào diễn biến chung của VN-Index. Tuy nhiên, năm vừa rồi là năm mà VN-Index đã tăng rất mạnh, trong đó, có khoảng tầm 10 mã đầu tiên đã đóng góp gần như toàn bộ phần tăng điểm, song, vẫn còn những doanh nghiệp tiềm năng khác, dù kết quả kinh doanh tốt nhưng giá cổ phiếu vẫn chưa tăng trưởng nhiều.
Tôi nghĩ, năm sau, mức tăng sẽ có sự phân bổ đều hơn. Chúng ta cũng hoàn toàn có thể kỳ vọng những sự chuyển biến tốt hơn của dòng tiền, đặc biệt là dòng tiền nước ngoài, sau khi Việt Nam chính thức được vào thị trường chứng khoán mới nổi, tôi cho rằng, dòng tiền phân bổ sẽ bắt đầu quay lại mạnh mẽ hơn vào năm sau.
Như vậy, các nhóm ngành sẽ có sự phân hóa như thế nào?
TS. Trần Thăng Long: Năm vừa qua, có thể thấy, tốc độ tăng trưởng chung của lợi nhuận thị trường khá tốt, nhưng cũng có sự phân hóa nhất định. Theo đó, có khoảng 9/19 ngành có tốc độ tăng trưởng vượt trội so với năm trước, nhưng bên cạnh đó, cũng có nhiều nhóm ngành có kết quả vẫn chưa thể hiện tốt trong năm vừa qua.
Đến năm 2026, tôi nghĩ, sẽ có một sự khác biệt do chúng ta đang ở trong một chu kỳ tăng trưởng tương đối khác. Thế nên, những nhóm ngành có độ trễ cao hơn so với trước đây, chẳng hạn như tiêu dùng, hay như bán lẻ, có khả năng sẽ có tốc độ phục hồi tốt hơn, khi đang có xu hướng cải thiện qua từng quý, cũng như diễn biến bán hàng cũng đang tốt dần lên.
Năm 2025, VN-Index đã tạo nền tích lũy ở mức 1.620 - 1.700 điểm, mặc dù vậy, những đợt vượt tích lũy, tăng đến 1.780 điểm, hoàn toàn phụ thuộc vào nhóm cổ phiếu Vin. Ngoài ra, chúng ta có những nhóm, có thể nói là có trọng số tương đối lớn hơn ở trong chỉ số, chẳng hạn như nhóm liên quan đến ngân hàng hay dịch vụ tài chính. Năm vừa rồi cũng là một năm mà hai nhóm này chưa thể hiện được nhiều, tốc độ tăng trưởng của nhóm này về mặt lợi nhuận cũng khá tốt, khoảng trên 20%.
Bên cạnh đó, nhà đầu tư cũng sẽ nhìn lại những yếu tố liên quan đến định giá và tăng trưởng, có thể dễ dàng nhận thấy, không phải những doanh nghiệp nào có nhiều cổ phiếu tăng thật mạnh trước đây, sẽ là những doanh nghiệp có khả năng chắc chắn sẽ tăng trong những năm tiếp theo và ngược lại. Chúng ta sẽ nhìn thấy cơ hội ở những cái nhóm ngành khác.
Xét về nhóm ngành trong 2025, ngành hàng và dịch vụ công nghiệp, ô tô và phụ tùng, công nghệ thông tin và viễn thông có mức giảm từ 17% - 27%. Bốn nhóm ngành có hiệu suất vượt VN-Index gồm bất động sản (+168%), Du lịch và giải trí (+46%), Dịch vụ tài chính (+31%) và Tài nguyên cơ bản (+30%). Ngoài ra, tôi nghĩ rằng, cũng sẽ có những nhóm ngành tiếp tục được hưởng lợi từ xu hướng giải ngân đầu tư công mạnh mẽ của Việt Nam, cùng những thay đổi chính sách về mặt hạ tầng của Việt Nam, chẳng hạn như nhóm ngành liên quan đến xây lắp hay vật liệu hoặc những nhóm ngành liên quan đến năng lượng, tôi cho rằng, đó cũng là những nhóm ngành nền tảng của nền kinh tế.
Mặc dù VN-Index tăng điểm mạnh trong 2025 nhưng diễn biến cổ phiếu đang có sự phân hóa khá rõ. Tôi cho rằng 2026 sẽ không còn sự phân hóa quá rộng như 2025. Thay vào đó là những câu chuyện và triển vọng trên thị trường sẽ dàn trải ở nhiều cổ phiếu lớn trong danh mục đầu tư, khi thị trường được nâng hạng. Dòng tiền đầu tư dự báo tập trung vào các cổ phiếu có chất lượng tăng trưởng tốt ở một số ngành như tiêu dùng, ngân hàng, tài nguyên cơ bản, tiện ích và công nghệ.

