Tờ Nikkei Asian Review cho hay đã 5 năm trôi qua kể từ năm 2018 khi Tổng thống Mỹ Donald Trump khi đó áp đặt các lệnh giới hạn xuất khẩu, đầu tư với Trung Quốc trong mảng công nghệ, nhưng các ông lớn của ngành (Big Tech) vẫn chẳng thể sống thiếu nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới này.
Gần đây, hàng loạt những cái tên nổi tiếng trong ngành công nghệ đã đến thăm Bắc Kinh gần đây trong bối cảnh thị trường này nới lỏng lệnh giãn cách hậu đại dịch. Kể cả khi căng thẳng Mỹ-Trung có leo thang thế nào đi chăng nữa thì thị trường tỷ dân vẫn đóng vai trò quá quan trọng cho các doanh nghiệp hàng đầu thế giới.
Tháng 6/2023, tỷ phú Bill Gates, nhà sáng lập Microsoft đã được chào đón ở thủ đô Bắc Kinh bởi Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, một vinh dự hiếm hoi cho một doanh nhân.
“Ông là người bạn Mỹ đầu tiên tôi tiếp từ đầu năm đến nay”, Chủ tịch Tập Cận Bình cười nói với Bill Gates.
Trước đó vào tháng 5/2023, nhà sáng lập Elon Musk của Tesla cũng đã đến thăm Trung Quốc và gặp gỡ các quan chức chính phủ ở nhà máy của mình tại Thượng Hải. Tháng 4 thì có chuyến thăm của CEO Intel, ông Pat Gelsinger tại Bắc Kinh.
Vào tháng 3, CEO Tim Cook của Apple cùng CEO Cristiano Amon của Qualcomm cũng đã tham dự một diễn đàn ở Bắc Kinh cho chính phủ Trung Quốc tổ chức cùng nhiều giám đốc cấp cao của các tập đoàn quốc tế khác.
“Apple và Trung Quốc đang cùng nhau phát triển và đây là một mối quan hệ cộng sinh khi đôi bên cùng có lợi”, CEO Tim Cook phát biểu trong chuyến thăm đầu tiên đến đất nước tỷ dân hậu đại dịch.
Mới đây nhất, chuyến thăm của Ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken vào tháng 6 và Bộ trưởng thương mại Mỹ Janet Yellen vào tháng 7/2023 đã càng khiến nhiều chuyên gia phải nhận định lại về tầm quan trọng của Trung Quốc trên trường quốc tế.
CEO Abishur Prakash của hãng tư vấn The Geopolitical Business nhận định ngày càng nhiều doanh nghiệp lớn trên thế giới quan tâm đến tầm quan trọng của Trung Quốc.
“Câu hỏi hiện nay là liệu các doanh nghiệp sẽ làm thế nào để thích nghi được với môi trường kinh tế mới tại Trung Quốc trong bối cảnh biến động địa chính trị hiện nay. Mọi người đều hiểu rằng thị trường Trung Quốc đang dần siết chặt và khó để tiếp cận hơn nên các lãnh đạo doanh nghiệp mới phải đua nhau đến gặp quan chức chính phủ để đàm luận về sự thay đổi môi trường kinh doanh trong tương lai”, ông Prakash nói.
Tờ Nikkei nhận định bất chấp việc Mỹ đã siết chặt cấm vận công nghệ với Trung Quốc trong 5 năm qua nhưng những tập đoàn lớn nhất của Mỹ vẫn phụ thuộc quá lớn vào đất nước tỷ dân, nếu không muốn nói là ngày càng phụ thuộc hơn để rồi bị cuốn vào trong cuộc xung đột địa chính trị này.
Không thể thay thế
Vào năm 2018, chính quyền Washington đã yêu cầu các doanh nghiệp hạn chế phụ thuộc vào nguồn cung ứng từ Trung Quốc, nhưng đã 5 năm trôi qua mà chẳng có gì thay đổi. Số liệu thu thập được của Nikkei cho thấy các doanh nghiệp công nghệ Mỹ vẫn phụ thuộc rất lớn cả về chuỗi cung ứng lẫn doanh số tại Trung Quốc.
Cụ thể, 17/100 tập đoàn quốc tế có doanh số lớn nhất tại Trung Quốc trong 5 năm vừa qua là các hãng công nghệ Mỹ.
Thậm chí những cái tên như Apple hay Tesla cũng chẳng có thay đổi gì về tỷ lệ doanh số tại Trung Quốc, nếu không muốn nói là tăng lên, kể từ năm 2018. Chuyện này cũng tương tự như với nhiều doanh nghiệp công nghệ khác bao gồm cả các tập đoàn bán dẫn, vốn là mảng Mỹ đang cố gắng giành lại ưu thế cũng như thực hiện nhiều lệnh ngăn cấm nhất.
Phân tích của Nikkei dựa trên số liệu của QUICK FactSet cho thấy rất khó để nói Trung Quốc phụ thuộc vào công nghệ Mỹ nhiều hơn hay các doanh nghiệp Mỹ phụ thuộc vào nền kinh tế tỷ dân hơn. Tuy nhiên cho dù thế nào sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các bên chẳng hề thay đổi kể từ năm 2018 đến nay, và thậm chí còn tăng lên trong một số trường hợp.
Ví dụ điển hình nhất có thể kể đến là Apple, công ty giá trị nhất thế giới với tổng mức vốn hóa thị trường đạt 3 nghìn tỷ USD. Thế nhưng doanh số của tập đoàn này năm 2022 tại Trung Quốc lại lên đến 70 tỷ USD, trở thành công ty nước ngoài kiếm nhiều tiền nhất trên thị trường 1,4 tỷ dân.
Tương tự, hãng sản xuất chip Qualcomm của Mỹ cũng phụ thuộc hơn 60% doanh số vào Trung Quốc. Tỷ lệ này là hơn 20% với Tesla.
Thống kê của Nikkei cho thấy 8 doanh nghiệp phụ thuộc doanh số vào Trung Quốc nhiều nhất lại đều hoạt động trong lĩnh vực bán dẫn, nơi Mỹ đang cố siết chặt quản lý. Vào tháng 10/2022, chính quyền Washington đã cấm các doanh nghiệp cung ứng nhiều công nghệ, thiết bị liên quan đến mảng bán dẫn cho phía Trung Quốc. Mỹ cũng cấm các công dân của mình được làm việc cho công ty bán dẫn Trung Quốc.
Bất chấp điều đó, hàng loạt những tên tuổi lớn như Qualcomm, Lam Research...trong ngành bán dẫn của Mỹ vẫn đang phụ thuộc doanh thu vào Trung Quốc, bỏ xa những thị trường như Châu Âu, Nhật Bản hay thậm chí chính nội địa Mỹ.
Một trong những nguyên nhân chính là Trung Quốc đã trở thành công xưởng điện tử và rất nhiều công nghệ xuất khẩu sang nền kinh tế này được chuyển trở lại dưới dạng thành phẩm thay vì được dùng cho thị trường 1,4 tỷ dân. Bởi vậy nhiều công ty cho rằng những báo cáo gia tăng căng thẳng chỉ nhìn vào những số liệu xuất nhập khẩu mà không quan tâm đến tình hình thực tế người sử dụng cuối cùng.
“Việc các hãng công nghệ Mỹ phụ thuộc lớn vào Trung Quốc chỉ phản ánh sự gia tăng trong đóng góp GDP toàn cầu cũng như dân số thế giới của nền kinh tế này mà thôi. Chẳng có một yếu tố nào cho thấy nguy cơ khi phát triển ở thị trường Trung Quốc cả”, giám đốc David Wong của APAC technology Research thuộc Nomura nhận định.
Năm 2022, tổng kim ngạch thương mại Mỹ-Trung đã đạt kỷ lục 690 tỷ USD bất chấp các lệnh cấm vận về công nghệ. Xuất khẩu của Mỹ sang Trung Quốc tăng 28% trong khoảng 2018-2022, còn kim ngạch nhập khẩu tại thời điểm năm 2022 thì đạt 536,3 tỷ USD.
“Trung Quốc hiện đã trở thành phần không thể thiếu của nền kinh tế toàn cầu. Thị trường nội địa Trung Quốc giờ đây quan trọng chẳng kém gì Mỹ. Bởi vậy trong khi chính quyền Washington cố ngăn chặn Bắc Kinh tiếp cận các công nghệ cao thì những tập đoàn công nghệ lớn của Mỹ lại chẳng thể sống thiếu thị trường Trung Quốc”, Phó giáo sư Fu Fangjian của trường đại học quản trị Singapore (SMU) nhấn mạnh.
Khó sống
Số liệu của Nikkei cho thấy đóng góp doanh số tại Trung Quốc của Apple trong năm tài khóa gần đây chỉ giảm nhẹ 0,74% so với cách đây 5 năm, xuống còn 18,8%. Hiện thị trường 1,4 tỷ dân vẫn là nơi nguồn đóng góp doanh thu lớn thứ 2 cho nhà táo khuyết sau Mỹ.
Thậm chí sau đại dịch, doanh thu của Apple tại Trung Quốc đã tăng mạnh 43% lên 74,2 tỷ USD năm tài khóa 2022, cao hơn nhiều mức 51,9 tỷ USD của năm 2018.
Tờ Nikkei cho biết Apple đã giành nhiều nguồn lực và thời gian để phát triển thị trường Trung Quốc kể từ năm 2014. Sau khi doanh số tại Trung Quốc vượt Châu Âu năm 2015, CEO Tim Cook đã phải thừa nhận rằng mình có niềm tin tích cực vào thị trường này, đồng thời sẽ tiếp tục đầu tư nhiều thập niên nữa.
“Trung Quốc sẽ là thị trường lớn của Apple trên thế giới”, CEO Tim Cook thừa nhận.
Tương tự với Tesla của nhà Elon Musk, Trung Quốc cũng đang trở thành phần không thể thiếu của công ty khi thị trường xe điện lớn nhất thế giới này phát triển chưa từng thấy. Năm 2022, Trung Quốc chiếm 22% tổng doanh số của Tesla, cao hơn nhiều so với chỉ 8% năm 2018.
Với tình hình các tập đoàn công nghệ cố gắng sống sót trong bối cảnh nền kinh tế khó khăn, nhu cầu thị trường yếu thì những lệnh cấm của Mỹ lại đang giết chết chính các công ty của mình.
“Có khả năng cao chính phủ Mỹ sẽ cấm chip của Qualcomm được lắp ráp vào những chiếc smartphone Trung Quốc, hay iPhone không được bán tại đây, để rồi Apple chẳng thể kiếm được tiền ở Trung Quốc nữa”, giám đốc Wong của APAC nói.
Thế nhưng điều đáng sợ với các công ty Mỹ hơn cả không phải đến từ chính phủ của mình mà là chính quyền Bắc Kinh.
Cho đến hiện tại, Trung Quốc vẫn phản ứng rất kiềm chế với các doanh nghiệp Mỹ. Tháng 5/2023, chính quyền Bắc Kinh đã tuyên bố hãng chip Micron Technology vi phạm quy định về bảo mật và cấm bán sản phẩm của thương hiệu này tại Trung Quốc.
“Chúng tôi ước tính rằng doanh thu của tập đoàn sẽ ảnh hưởng bởi một tỷ lệ 2 con số ở mức thấp. Khó khăn này sẽ ảnh hưởng đến tương lai cũng như khả năng hồi phục kinh doanh của hãng”, CEO Sanjay Mehrotra của Micron Technology than thở.
Hãy tưởng tượng nếu lệnh cấm này không phải chỉ là Micron mà là Apple, Tesla hay Qualcomm thì câu chuyện sẽ thế nào?
*Nguồn: Nikkei Asian Review