CEO Công ty Quản lý Quỹ VinaCapital Brook Taylor: Việt Nam là nền kinh tế duy nhất ở Đông Nam Á có thể thành công như Hàn Quốc, Đài Loan

Quỳnh Anh/ TK: Hải An | 05:51 08/08/2025

Brook Taylor – COO Tập đoàn VinaCapital kiêm CEO Công ty Quản lý Quỹ VinaCapital – đã sống và làm việc ở Việt Nam gần 30 năm. Từng bước chứng kiến Việt Nam chuyển mình từ một nền kinh tế đang hồi phục sau chiến tranh đến vị thế mắt xích của chuỗi cung ứng toàn cầu, ông tin rằng đất nước đang đứng trước một ngưỡng phát triển mới - trở thành một trong 20 nền kinh tế lớn nhất thế giới vào năm 2045.

CEO Công ty Quản lý Quỹ VinaCapital Brook Taylor: Việt Nam là nền kinh tế duy nhất ở Đông Nam Á có thể thành công như Hàn Quốc, Đài Loan

Lần đầu đặt chân đến Việt Nam vào năm 1995 cho một công việc tưởng chỉ kéo dài hai tuần, Brook Taylor – nay là Tổng Giám đốc điều hành (COO) của Tập đoàn VinaCapital – đã ở lại gần ba thập kỷ.

Không chỉ là một trong những nhà đầu tư nước ngoài gắn bó lâu năm nhất với Việt Nam, ông còn là tác giả của Vietnam: Asia’s Rising Star – cuốn sách tiếng Anh hiếm hoi do một người nước ngoài viết về hành trình chuyển mình ngoạn mục của Việt Nam. Với ông, những gì Việt Nam đạt được trong ba thập kỷ qua là “điều rất hiếm quốc gia nào trên thế giới làm được”.

“Tôi không viết sách vì mục đích tài chính. Tôi viết để lan tỏa một câu chuyện, để giúp người Việt tự tin hơn vào tương lai đất nước mình và để thế giới hiểu rằng Việt Nam không còn là quốc gia nghèo như trong ký ức của thập niên 90”, ông Brook Taylor chia sẻ.

vn-web-01.jpg

Được biết ông đến Việt Nam lần đầu vào năm 1995. Khoảng thời gian 30 năm ở đây có phải lý do truyền cảm hứng cho ông viết cuốn sách 'Việt Nam: Ngôi sao đang lên của Châu Á'?

Có rất nhiều lý do để tôi bắt đầu cuốn sách này. Vì tính chất công việc, tôi thường có cơ hội gặp gỡ các đoàn sinh viên từ những đại học hàng đầu thế giới tới Việt Nam để tìm hiểu về đất nước. Ban đầu, những bài thuyết trình mà tôi chuẩn bị phần nhiều mang tính kinh tế.

Nhưng rồi, tôi nhận ra rằng, rất nhiều trong số những người sang tìm hiểu Việt Nam, không chỉ riêng sinh viên, họ đều mang định kiến cũ về Việt Nam kiểu như “đất nước vẫn còn bị tàn phá bởi chiến tranh” hoặc “vẫn đang cố gắng phục hồi sau chiến tranh” …. Những điều đó từng đúng hơn 40 năm trước, nhưng Việt Nam ngày nay đã thay đổi rất nhiều. Vì thế, tôi thấy cần có ai đó giúp mọi người hiểu về Việt Nam hiện đại, càng nhanh càng tốt.

Đến khi bắt tay vào viết sách, tôi lại nhận ra rằng, ngay cả người Việt cũng chưa thực sự hiểu hết những thay đổi đang diễn ra ở đất nước mình. Vì vậy, cuốn sách ra đời để ai cũng có thể hiểu được chuyện gì đang xảy ra, chuyện gì đã qua, và quan trọng nhất là có được niềm tin vào tương lai. Bởi lẽ, những gì đang diễn ra ở Việt Nam không phải là ngẫu nhiên, mà là kết quả của một chiến lược có định hướng và đã chứng minh hiệu quả ở một số quốc gia.

Là một trong những chuyên gia nước ngoài chứng kiến sự thay đổi của Việt Nam từ những ngày đầu, điều gì khiến ông ấn tượng nhất trong hành trình phát triển của Việt Nam?


Nhìn chung, sự chuyển mình của Việt Nam là điều vô cùng ấn tượng. Có thể một số người cho rằng quá trình này chưa đủ nhanh, nhưng tôi hiểu rằng sự phát triển của một quốc gia luôn có giới hạn nhất định. Nhiều quốc gia trải qua giai đoạn tăng trưởng nhưng không thể trở nên giàu có bền vững. Tuy nhiên, trong mắt tôi, thành thật mà nói, Việt Nam đã làm rất tốt trong 20–25 năm qua.

Tôi muốn người Việt tự hào hơn về đất nước mình. Bởi lẽ, trong suốt quá trình phát triển, Việt Nam còn đạt được thành tích ở rất nhiều khía cạnh chứ không chỉ riêng con số tăng trưởng GDP. Một trong số đó là thành tích giảm nghèo. Việt Nam đã giúp phần lớn dân số thoát khỏi nghèo đói, có cuộc sống ổn định và tốt hơn, điều mà rất ít quốc gia trên thế giới làm được trong vòng 25 năm qua. Đó là điều rất đáng để ăn mừng và để tất cả chúng ta có niềm tin rằng Việt Nam hoàn toàn có thể đạt được các mục tiêu đã đặt ra.

photo_2025-08-08_14-14-46.jpg

Trong cuốn Việt Nam: Ngôi sao đang lên của Châu Á, ông đề cập đến nhiều cột mốc: gia nhập WTO, cải cách Luật Doanh nghiệp, mở cửa cho dòng vốn FDI, thành lập thị trường chứng khoán… Theo ông, cột mốc nào tạo ra bước ngoặt lớn nhất với kinh tế Việt Nam?

Chúng tôi xác định rằng việc Việt Nam gia nhập WTO vào năm 2007 là một cột mốc cực kỳ quan trọng trong quá trình phát triển của đất nước. Trước khi viết sách, tôi từng nghĩ rằng “năm thứ nhất” của kinh tế Việt Nam là vào 1997, thời điểm tôi chuyển đến sống tại đây.

Nhưng khi nhìn nhận kỹ hơn, chúng tôi nhận ra cột mốc quan trọng thật sự là thời điểm 10 năm sau, khi Việt Nam gia nhập WTO. Đó chính là thời điểm nền kinh tế thực sự mở cửa, và thương mại toàn cầu trở thành chất xúc tác thúc đẩy tăng trưởng trên toàn bộ nền kinh tế.

Tầm quan trọng của việc gia nhập WTO chủ yếu nằm ở việc hội nhập quốc tế, đặc biệt là về thương mại. Giờ đây, chúng ta có thể thấy xuất khẩu của Việt Nam đã tăng trưởng mạnh mẽ thế nào nhờ vào việc gia nhập WTO và thiết lập quan hệ thương mại với nhiều quốc gia trên thế giới.

WTO dường như trở thành ‘cánh cửa’ để Việt Nam ngày càng trở thành mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Theo ông, yếu tố nào đã giúp Việt Nam xây dựng được vị thế này trong bối cảnh cạnh tranh khu vực gay gắt?


Thật thú vị khi thấy Việt Nam đang ở vị trí này, bởi vì đã có rất nhiều quốc gia cố gắng trở thành công xưởng sản xuất, nhưng nhiều nước trong số đó đã thất bại. Tôi nghĩ, điều đầu tiên khiến Việt Nam trở nên khác biệt nằm ở tính ổn định của chính sách. Bên cạnh đó, Việt Nam còn tích cực trong việc xây dựng quan hệ thương mại, với hơn 15 hiệp định thương mại được ký kết với các quốc gia trên thế giới.

Yếu tố then chốt chính là sự cởi mở của người Việt Nam trong việc thu hút vốn và công nghệ. Khi so sánh với các quốc gia khác trong khu vực, họ không cởi mở với người nước ngoài bằng Việt Nam. Điều này nghe có vẻ kỳ lạ vì Việt Nam từng đóng cửa với thế giới trong giai đoạn 1975–1990. Nhưng thực tế hiện nay, Việt Nam lại rất cởi mở với các ý tưởng từ bên ngoài. Họ học hỏi, nắm bắt công nghệ và rồi áp dụng theo cách riêng của mình. Điều đó thực sự là một yếu tố tạo nên thành công thực sự của Việt Nam.

vn-web-04.jpg

Trong cuốnViệt Nam: Ngôi sao đang lên của Châu Á, ông liên tục so sánh Việt Nam với Hàn Quốc và Đài Loan. Vì sao hai nền kinh tế này được chọn làm ví dụ điển hình cho Việt Nam mà không phải là Đông Nam Á?

Đúng là Việt Nam là một quốc gia Đông Nam Á về mặt địa lý. Nhưng sai lầm lớn nhất mà nhiều người có thể mắc phải khi đánh giá Đông Nam Á là nghĩ rằng tất cả các quốc gia trong khu vực này đều giống nhau. Trên thực tế, các quốc gia này rất khác biệt.

Với Việt Nam, yếu tố phân biệt lớn nhất lại nằm ở văn hóa. Văn hóa quan trọng hơn cả địa lý. Điều khiến Việt Nam khác với phần còn lại của Đông Nam Á là vì nền tảng văn hóa của Việt Nam có nhiều điểm tương đồng với Đông Bắc Á hơn.

Tôi cho rằng, văn hóa Việt Nam là sự pha trộn giữa Đông Nam Á và Đông Bắc Á, nhưng chắc chắn không hoàn toàn là Đông Nam Á. Điều này đặc biệt đúng với các giá trị và triết lý Nho giáo được duy trì rất rộng rãi tại Việt Nam, trong khi các quốc gia Đông Nam Á khác thì không có, ngoại trừ Singapore.

Nho giáo mang lại những giá trị rất mạnh trong việc xây dựng quốc gia, vùng lãnh thổ: xã hội có trật tự, gia đình có cấu trúc, coi trọng giáo dục, chăm chỉ và tôn kính cha mẹ. Đây đều là nền tảng tinh thần giúp tạo nên thành công của Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và Trung Quốc đại lục.

Chính vì vậy, khi nói chuyện với các nhà đầu tư, tôi thường khuyên họ đừng nhìn Việt Nam như một quốc gia Đông Nam Á điển hình, vì ngoại trừ Singapore, khu vực này ít có hình mẫu phát triển kinh tế thành công. Thay vào đó, hãy nghĩ về Việt Nam như một quốc gia đang trên hành trình bắt kịp với Đông Bắc Á.

Tôi thường đặt câu hỏi: “Nếu bạn có cơ hội đầu tư vào Hàn Quốc năm 1990, bạn có làm không? Vậy tại sao không đầu tư vào Việt Nam hôm nay?”

Việt Nam cũng đang đi theo mô hình phát triển Đông Á, con đường mà Hàn Quốc và Đài Loan từng đi. Vì vậy, việc chúng ta học theo những nền kinh tế đó là điều hoàn toàn hợp lý, cả về văn hóa lẫn chiến lược phát triển kinh tế.

photo_2025-08-08_14-14-51.jpg

Với mục tiêu trở thành quốc gia có thu nhập cao vào năm 2045, theo ông, đâu là những lợi thế mà Việt Nam cần tiếp tục phát huy để hiện thực hóa mục tiêu này?

Hàn Quốc và Đài Loan có lực lượng lao động lớn, thông minh và được đào tạo bài bản. Họ hội nhập quốc tế sâu rộng, đặc biệt là thông qua các hiệp định thương mại tích cực với Hoa Kỳ, thị trường tiêu dùng lớn nhất thế giới, giúp mở ra cánh cửa tới thị trường toàn cầu. Cả hai nền kinh tế cũng đầu tư mạnh mẽ vào công nghệ cao, và xây dựng thành công các ngành công nghiệp mũi nhọn. Đây đều là những bài học mà Việt Nam hoàn toàn có thể tiếp thu và áp dụng.

Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy Việt Nam có những lợi thế riêng mà cả Hàn Quốc và Đài Loan không có ở thời điểm tương đương. Một điểm nổi bật là sự tham gia mạnh mẽ của phụ nữ vào lực lượng lao động. Khác với Hàn Quốc và Đài Loan 30 năm trước, tại Việt Nam, gần như không có rào cản lớn nào trong việc trao quyền cho phụ nữ. Bên cạnh đó, Việt Nam còn sở hữu nguồn tài nguyên tự nhiên dồi dào, cả về nông nghiệp lẫn khoáng sản, điều mà Hàn Quốc gần như không có.

Những yếu tố này mang lại cho Việt Nam một nền tảng phát triển rất khác biệt. Điều quan trọng là chúng ta cần kiên định với con đường đã chọn, nhìn vào những thành công của Hàn Quốc và Đài Loan như tấm gương, và tiếp tục duy trì cam kết hiện đại hóa nền kinh tế một cách bền vững.

vn-web-06.jpg

Tôi cũng nhận thấy một điểm tương đồng giữa Hàn Quốc và Đài Loan là họ có rất nhiều doanh nghiệp nội địa mạnh. Vậy ông đánh giá thế nào về doanh nghiệp trong nước của Việt Nam?

Đúng là cả Hàn Quốc và Đài Loan đều sở hữu những doanh nghiệp nội địa rất mạnh, nhưng cấu trúc của họ lại hoàn toàn khác nhau. Hàn Quốc phát triển theo mô hình các tập đoàn lớn kiểu “chaebol” như Samsung, LG…, trong khi Đài Loan chủ yếu dựa vào các doanh nghiệp gia đình. Ở đó, các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) phát triển lên quy mô lớn nhưng vẫn giữ bản sắc gia đình.

Còn tại Việt Nam, khu vực doanh nghiệp tư nhân trong nước vẫn đang trên hành trình bắt kịp với quốc tế. Mới đây, Việt Nam đã thông qua một Nghị quyết quan trọng về việc phát triển kinh tế tư nhân, công nhận vai trò trung tâm của khu vực tư nhân trong chiến lược phát triển, coi đây là động lực chủ yếu để hiện thực hóa mục tiêu trở thành quốc gia thu nhập cao.

Tôi cho rằng đây là một bước ngoặt đáng chú ý. Phải mất 40 năm Đổi Mới, Việt Nam mới chính thức xác lập vai trò dẫn dắt của khu vực tư nhân trong tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, điều quan trọng là phải xem chính sách này sẽ được triển khai như thế nào. Những tín hiệu ban đầu từ Chính phủ bao gồm cải cách luật pháp, cải thiện tiếp cận vốn và tín dụng, thiết kế các khung hỗ trợ mới, đều rất tích cực. Chúng ta cần tạo ra một “sân chơi bình đẳng” giữa doanh nghiệp nước ngoài, doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân Việt Nam.

vn-web-07.jpg

Chúng ta đề cập nhiều đến khu vực tư nhân, vậy ông đánh giá thế nào về vai trò của dòng vốn quốc tế việc giúp Việt Nam hướng tới quốc gia thu nhập cao?

Nếu có thể huy động được từ trong nước thì nên ưu tiên sử dụng nguồn lực nội địa trước, thay vì phụ thuộc vào vốn quốc tế. Đó là điều đầu tiên cần khẳng định. Thực tế, Việt Nam đang có lượng vốn trong nước chưa được khai thác hiệu quả. Nguồn tiền gửi nằm yên trong ngân hàng mà không được đưa vào lưu thông là một ví dụ điển hình cho việc sử dụng vốn kém hiệu quả. Do đó, việc cải thiện khả năng huy động và phân bổ vốn trong nước cần được đặt lên hàng đầu.

Còn với vốn quốc tế, rõ ràng trên thế giới có rất nhiều dòng tiền, và việc tiếp cận nguồn vốn này là cần thiết. Nhưng chỉ nên sử dụng nếu điều kiện đủ hấp dẫn – tức là chi phí sử dụng vốn ở mức hợp lý. Hiện nay, rủi ro tỷ giá là rào cản lớn. Nhà đầu tư nước ngoài thường yêu cầu sử dụng đồng USD, trong khi chi phí phòng ngừa rủi ro tỷ giá đối với doanh nghiệp Việt Nam lại rất cao.

Vì vậy, dòng vốn quốc tế nên được xem là nguồn bổ sung, chứ không phải nguồn thay thế. Ưu tiên trước hết vẫn là khai thác hiệu quả tiềm lực tài chính trong nước.

Theo ông, những rào cản hoặc thách thức lớn nhất mà Việt Nam cần vượt qua để đạt mục tiêu trở thành quốc gia thu nhập cao là gì?


Trong sách, chúng tôi có đề cập đến một số thách thức, một vài trong số đó liên quan đến môi trường và tác động của biến đổi khí hậu lên Việt Nam. Đây là những rủi ro ngoài tầm kiểm soát, nhưng vẫn cần được tính đến một cách nghiêm túc trong chiến lược phát triển dài hạn.

Một thách thức khác cũng vô cùng cấp thiết đó là vấn đề già hóa dân số. Chúng ta không muốn rơi vào tình trạng “già trước khi giàu”. Tất nhiên, Việt Nam vẫn sẽ tiếp tục tăng trưởng, nhưng thời gian cơ cấu dân số còn thuận lợi chỉ còn kéo dài khoảng 10 năm nữa. Sau đó, áp lực già hóa sẽ tăng lên rõ rệt.

Tôi cho rằng các mục tiêu tăng trưởng mà chính phủ đặt ra, 8% năm nay và 10% trong nhưng năm sau đó là cần thiết. Bởi nếu không thể duy trì tốc độ tăng trưởng trên 9% trong thập kỷ này, thì sẽ rất khó để Việt Nam trở thành một quốc gia giàu có một cách bền vững.

photo_2025-08-08_14-14-55.jpg

Chúng ta vẫn có thể đạt mức “quốc gia giàu” trên giấy tờ, nghĩa là GDP bình quân đầu người khoảng 13.000 USD theo định nghĩa của Ngân hàng Thế giới. Tuy nhiên, nhiều quốc gia đạt ngưỡng đó nhưng người dân vẫn không thật sự cảm thấy “giàu”.

Để thật sự giàu, một quốc gia cần đạt mức GDP bình quân đầu người từ 25.000 đến 30.000 USD – đó mới là khi người dân thực sự cảm nhận được sự sung túc. Và đó chính là điều mà chúng ta nên hướng đến, không phải là mức 12.000 hay 13.000 USD.

Ngoài ra, trong cuốn sách, chúng tôi từng bình luận rằng có lẽ thách thức lớn nhất chính là năng lực của bộ máy nhà nước. Tức là đảm bảo rằng chúng ta có những người phù hợp trong chính phủ.

Ví dụ như ở Singapore, họ trao quyền và trả lương cho công chức cao hơn cả CEO của các công ty lớn. Họ đảm bảo rằng những người điều hành quốc gia là những người giỏi nhất, thông minh nhất, chăm chỉ nhất, có động lực nhất và được trả lương xứng đáng để làm tốt công việc. Chúng ta cũng phải đảm bảo điều tương tự đang diễn ra ở Việt Nam. Và tôi nghĩ rằng những cải cách gần đây của Chính phủ cho tôi nhiều hy vọng.

Nếu được viết thêm một chương mới cho cuốn Việt Nam: Ngôi sao đang lên của Châu Á, ông muốn kể câu chuyện gì về kinh tế Việt Nam? Ông hình dung Việt Nam sẽ như thế nào vào năm 2035 hoặc 2045?


Khoảng một năm trước, câu hỏi “Việt Nam vào năm 2045 sẽ trông như thế nào? Những thành tựu khi đó sẽ ra sao?” ấy khiến tôi suy nghĩ rất nhiều, vì trong sách chúng tôi chỉ mới đề cập sơ lược chứ chưa đào sâu.

Tôi bắt đầu tưởng tượng về một tương lai cụ thể, không phải bằng những chỉ số khô khan, mà bằng hình ảnh mà người Việt hôm nay có thể hình dung và cảm nhận. Chẳng hạn, chúng tôi từng dự đoán rằng Việt Nam có thể đăng cai Thế vận hội Olympic vào năm 2052. Với nhiều người, điều đó nghe thật viễn vông. Nhưng nếu nhìn vào lịch sử, Nhật Bản tổ chức Olympic năm 1964, Hàn Quốc năm 1988, Trung Quốc đại lục năm 2008, thì việc một quốc gia mới nổi tổ chức các sự kiện thể thao toàn cầu chính là lời khẳng định với thế giới rằng: “Chúng tôi đã vươn lên.”

Tôi còn hình dung: tại sao không thể có một ca khúc V-pop dẫn đầu bảng xếp hạng toàn cầu? Một bộ phim Việt giành giải Oscar? Hay đội tuyển Việt Nam thi đấu tại World Cup? Nghe có vẻ phi thực tế, nhưng Hàn Quốc đã làm được cả ba: Gangnam Style, Parasite và đội tuyển quốc gia của họ là minh chứng.

Khi tôi chia sẻ điều đó, nhiều người Việt bắt đầu thấy rằng những viễn cảnh ấy hoàn toàn có thể đạt được. Chứ nếu chỉ nói thẳng rằng “Việt Nam sẽ có bản nhạc top 1 toàn cầu trong 20 năm tới”, họ sẽ không tin.

Chúng tôi tin rằng đến năm 2050, Việt Nam sẽ nằm trong nhóm 20 nền kinh tế lớn nhất thế giới. Điều đó có nghĩa là trở thành một quốc gia G20 – mà G20 không chỉ là sức mạnh kinh tế, mà còn là sức mạnh chính trị. Việt Nam sẽ đóng vai trò ngày càng quan trọng trong các vấn đề quốc tế. Đó là xu thế đã bắt đầu hình thành và sẽ rõ rệt hơn trong thập kỷ tới.

photo_2025-08-08_14-14-58.jpg

Nhìn xa hơn, tôi tin Việt Nam có thể trở thành một nền kinh tế hiện đại như Nhật Bản, Hàn Quốc hay Đài Loan, nhưng mang đậm dấu ấn văn hóa riêng. Tôi tin Việt Nam sẽ bước vào một giai đoạn người dân tự hào hơn, tin tưởng hơn vào bản sắc dân tộc.

Chính làn sóng này sẽ thúc đẩy văn hóa Việt tỏa sáng mạnh mẽ hơn trong đời sống, sản phẩm, sáng tạo và rồi, thế giới cũng sẽ nhìn nhận và đón nhận Việt Nam không chỉ là một nền kinh tế đang lên, mà còn là một nền văn hóa đáng tự hào.

Bài: Quỳnh Anh

Thiết kế: Hải An


(0) Bình luận
CEO Công ty Quản lý Quỹ VinaCapital Brook Taylor: Việt Nam là nền kinh tế duy nhất ở Đông Nam Á có thể thành công như Hàn Quốc, Đài Loan
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO