Giá dầu tiếp đà tăng
Giá dầu tăng, được hỗ trợ bởi tồn trữ dầu thô của Mỹ thấp hơn nhiều so với dự kiến, song lo ngại lãi suất tăng có thể nhấn chìm tăng trưởng kinh tế toàn cầu đã hạn chế đà tăng.
Chốt phiên giao dịch ngày 29/6, dầu thô Brent tăng 31 US cent tương đương 0,4% lên 74,34 USD/thùng và dầu thô Tây Texas WTI tăng 30 US cent tương đương 0,4% lên 69,86 USD/thùng. Trong phiên trước đó, cả hai loại dầu đều tăng 3%, sau khi Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) cho biết tồn trữ dầu thô của Mỹ trong tuần kết thúc ngày 23/6/2023 giảm 9,6 triệu thùng, vượt xa so với dự báo giảm 1,8 triệu thùng của các nhà phân tích.
Các nhà đầu tư lo ngại về việc tăng lãi suất và tăng trưởng kinh tế, sau khi chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ, Jerome Powell nhắc lại ông kỳ vọng các quyết định lãi suất sẽ tiếp tục diễn ra với tốc độ vừa phải trong những tháng tới.
Giá khí tự nhiên tăng
Giá khí tự nhiên tại Mỹ tăng 1%, do lượng khí tồn trữ trong tuần qua thấp hơn so với dự kiến và dự báo nhu cầu trong 2 tuần tới cao hơn so với dự kiến trước đó.
Giá khí tự nhiên kỳ hạn tháng 8/2023 trên sàn New York tăng 3,3 US cent tương đương 1,2% lên 2,701 USD/mmBTU.
Giá vàng duy trì vững, bạch kim thấp nhất 8 tháng, palađi thấp nhất gần 4,5 năm
Giá vàng duy trì vững, do các thương nhân mua vào kiếm lời sau khi giá vàng dưới ngưỡng 1.900 USD/ounce, được thúc đẩy bởi hàng loạt số liệu kinh tế mạnh mẽ của Mỹ.
Vàng giao ngay trên sàn LBMA tăng 0,1% lên 1.908,4 USD/ounce, trong khi đó vàng kỳ hạn tháng 8/2023 trên sàn New York giảm 0,2% xuống 1.917,9 USD/ounce.
Trong phiên, giá vàng giảm xuống dưới ngưỡng 1.900 USD/ounce – lần đầu tiên – kể từ giữa tháng 3/2023, sau số liệu cho thấy chỉ số đồng USD tăng 0,4%, khiến vàng thỏi trở nên kém hấp dẫn đối với khách mua hàng nước ngoài. Đồng thời, lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ kỳ hạn 10 năm tăng cũng gây áp lực đối với giá vàng.
Số đơn xin trợ cấp thất nghiệp của Mỹ trong tuần trước giảm mạnh nhất 20 tháng, cho thấy thị trường lao động tăng mạnh cũng thúc đẩy tổng sản phẩm quốc nội trong quý 1/2023 tăng.
Giá bạch kim giảm 1,6% xuống 896,55 USD/ounce – thấp nhất 8 tháng.
Giá palađi giảm 1,6% xuống 1.228,5 USD/ounce – gần mức thấp nhất kể từ tháng 12/2018.
Giá đồng thấp nhất 1 tháng
Giá đồng chạm mức thấp nhất 1 tháng, do đồng USD tăng mạnh, lo ngại về lãi suất tăng cao ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế toàn cầu và dấu hiệu nhu cầu tại nước tiêu thụ kim loại hàng đầu – Trung Quốc – suy giảm.
Giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn London giảm 1% xuống 8.175 USD/tấn, sau khi chạm 8.141 USD/tấn – thấp nhất kể từ ngày 1/6/2013.
Hoạt động nhà máy tại Trung Quốc dự kiến sẽ giảm tháng thứ 3 liên tiếp trong tháng 6/2023, nhấn mạnh sự cần thiết của các chính sách kích thích hơn nữa để chống lại nhu cầu yếu.
Giá quặng sắt vẫn cao nhất 15 tuần, thép cây tăng
Giá quặng sắt trên sàn Đại Liên tăng lên mức cao nhất 15 tuần, được củng cố bởi sự lạc quan mới về triển vọng kích thích hơn nữa, nhằm hỗ trợ sự phục hồi kinh tế đang chững lại của Trung Quốc.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2023 trên sàn Đại Liên tăng 0,9% lên 830,5 CNY (114,71 USD)/tấn, sau khi đạt 835 CNY/tấn - cao nhất kể từ ngày 16/3/2023.
Trong khi đó, giá quặng sắt kỳ hạn tháng 7/2023 trên sàn Singapore giảm 0,4% xuống 112,95 USD/tấn.
Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây tăng 0,2%, thép cuộn cán nóng giảm 0,2%, thép cuộn tăng 0,6%, trong khi thép không gỉ giảm 1,2%.
Giá cao su giảm
Giá cao su tại Nhật Bản giảm, do lo ngại nền kinh tế tại nước mua hàng đầu – Trung Quốc – phục hồi chậm, làm lu mờ sự hỗ trợ từ đồng JPY yếu hơn so với đồng USD.
Giá cao su kỳ hạn tháng 12/2023 trên sàn Osaka giảm 0,3 JPY xuống 205,3 JPY (1,4 USD)/kg.
Đồng thời, giá cao su kỳ hạn tháng 9/2023 trên sàn Thượng Hải giảm 35 CNY xuống 11.885 CNY (1.641 USD)/tấn.
Đồng JPY suy yếu khiến tài sản mua bằng đồng JPY Nhật Bản đắt hơn khi mua bằng tiền tệ khác.
Giá cà phê tăng tại Việt Nam, giảm tại London và New York
Hoạt động giao dịch cà phê Việt Nam vẫn chậm chạp, do thị trường chịu ảnh hưởng bởi tình trạng khan hiếm nguồn cung kéo dài nhiều tháng, trong khi hoạt động giao dịch cà phê tại Indonesia bị đình trệ do nghỉ lễ.
Giá cà phê robusta xuất khẩu của Việt Nam (loại 2, 5% đen & vỡ) chào bán ở mức cộng 167-200 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 9/2023 trên sàn London, tăng so với 125-170 USD/tấn 1 tuần trước đó. Tại thị trường nội địa, cà phê nhân xô được bán với giá 65.400-66.900 VND (2,77-2,84 USD)/kg, tăng so với 65.000-67.000 VND/kg 1 tuần trước đó.
Xuất khẩu cà phê Việt Nam trong nửa đầu năm 2023 ước giảm 2,2% so với cùng kỳ năm ngoái xuống 1,02 triệu tấn, tương đương 17 triệu bao (60 kg). Kim ngạch xuất khẩu cà phê trong 6 tháng đầu năm 2023 tăng 3% so với cùng kỳ năm ngoái lên 2,4 tỉ USD.
Tại New York, giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 9/2023 giảm 0,35 US cent tương đương 0,2% xuống 1,616 USD/lb, sau khi chạm mức thấp nhất 5 tháng (1,5775 USD/lb) trong đầu phiên giao dịch.
Tại London, giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 9/2023 giảm 46 USD tương đương 1,8% xuống 2.570 USD/tấn.
Giá đường giảm
Giá đường thô kỳ hạn tháng 7/2023 trên sàn ICE giảm 0,5 US cent tương đương 2,2% xuống 22,07 US cent/lb, sau khi chạm mức thấp nhất gần 3 tháng (21,81 US cent/lb) trong đầu phiên giao dịch.
Đồng thời, giá đường trắng kỳ hạn tháng 8/2023 trên sàn London giảm 8,2 USD tương đương 1,3% xuống 620,6 USD/tấn.
Giá ngô thấp nhất gần 3 tuần, lúa mì giảm, đậu tương tăng
Giá ngô trên sàn Chicago giảm xuống mức thấp nhất gần 3 tuần, do mưa thúc đẩy triển vọng năng suất cây trồng tại khu vực Trung tây Mỹ.
Trên sàn Chicago, giá ngô kỳ hạn tháng 12/2023 giảm 8-1/4 US cent xuống 5,28-1/2 USD/bushel, sau khi chạm 5,26-1/4 USD/bushel – thấp nhất kể từ ngày 9/6/2023. Giá lúa mì kỳ hạn tháng 9/2023 giảm 2-1/4 US cent xuống 6,67-1/2 USD/bushel. Giá đậu tương kỳ hạn tháng 8/2023 tăng 6-3/4 US cent lên 13,67-3/4 USD/bushel và giá đậu tương kỳ hạn tháng 11/2023 tăng 3/4 US cent lên 12,65-3/4 USD/bushel.
Giá gạo Ấn Độ cao nhất 5 năm, Việt Nam và Thái Lan cao nhất hơn 2 năm
Giá xuất khẩu gạo Ấn Độ đạt mức cao nhất 5 năm, do nguồn cung khan hiếm và động thái tăng giá mua lúa bắt buộc của chính phủ, trong khi giá gạo tại Việt Nam và Thái Lan cũng đạt mức cao nhất hơn 2 năm.
Tại Ấn Độ - nước xuất khẩu gạo hàng đầu, giá gạo 5% tấm tăng tuần thứ 5 liên tiếp lên 409-416 USD/tấn – cao nhất kể từ đầu tháng 5/2018 so với 397-405 USD/tấn cách đây 1 tuần.
Tại Thái Lan, giá gạo 5% tấm ở mức 515 USD/tấn – cao nhất kể từ tháng 3/2021 so với 505 USD/tấn 1 tuần trước đó.
Giá gạo tăng do nhu cầu từ châu Á và châu Phi đối với gạo Thái Lan, khi giá gạo tại Ấn Độ tăng. Ngoài ra, giá gạo cũng được hỗ trợ bởi nguồn cung hạn chế với các lô hàng sang Indonesia và Philippines.
Đối với loại 5% tấm, giá gạo Việt Nam ở mức 500-510 USD/tấn – cao nhất kể từ tuần kết thúc ngày 1/4/2021, so với 495-505 USD/tấn 1 tuần trước đó.
Giá một số mặt hàng chủ chốt sáng ngày 30/6