Dầu giảm
Giá dầu đóng cửa giảm sau một phiên giao dịch biến động, tăng khoảng 1 USD/thùng sau một lệnh cấm xuất khẩu nhiên liệu của Nga sau đó ảnh hưởng từ tin tức kinh tế Phương Tây đã đẩy dầu giảm 1 USD/thùng.
Chốt phiên 21/9, dầu thô Brent kỳ hạn tháng 11 giảm 0,23 USD xuống 93,3 USD/thùng, trong khi dầu WTI giảm 0,03 US cent xuống 89,63 USD/thùng.
Nga tạm thời cấm xuất khẩu xăng và dầu diesel tới các nước ngoài 4 quốc gia thuộc Liên Xô cũ và có hiệu lực ngay nhằm ổn định thị trường nhiên liệu trong nước. Tình trạng thiếu hụt sẽ buộc khách hàng mua nhiên liệu của Nga phải mua ở những nơi khác khiến giá dầu sưởi tăng gần 5%.
Fed dự kiến một đợt tăng lãi suất nữa vào cuối năm lên 5,5 – 5,75%. Điều đó có thể làm giảm tăng trưởng kinh tế và tổng thể nhu cầu nhiên liệu. USD tăng lên mức cao nhất kể từ đầu tháng 3, khiến dầu và các hàng hóa khác đắt hơn cho người mua bằng các ngoại tệ khác.
Bộ Lao động Mỹ cho biết số đơn xin trợ cấp thất nghiệp giảm xuống mức thấp nhất 8 tháng trong tuần trước, đây là một yếu tố khác có thể khuyến khích tăng lãi suất.
Giá dầu vẫn được hỗ trợ bởi lo ngại nguồn cung toàn cầu khan hiếm trong quý 4. Dự trữ dầu thô của Mỹ tại Cushing, kho cảng phân phối dầu WTI ở mức thấp nhất kể từ tháng 7/2022 do OPEC duy trì cắt giảm sản lượng.
Vàng thoái lui
Giá vàng tiếp tục giảm phiên thứ 3 liên tiếp do USD và lợi suất trái phiếu tăng sau khi Cục Dữ trữ Liên bang Mỹ cảnh báo về một đợt tăng lãi suất bổ sung.
Vàng giao ngay giảm 0,5% xuống 1.919,78 USD/ounce. Vàng Mỹ kỳ hạn tháng 12 đóng cửa giảm 1,4% xuống 1.939,6 USD/ounce.
Đà giảm của vàng đã tiếp tục gây ra một số thanh lý của vị thế mua vào.
USD lên mức cao nhất 6 tháng, trong khi lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ kỳ hạn 10 năm ở mức cao nhất 16 năm đã gây áp lực cho vàng.
Tuy nhiên vàng vẫn duy trì khả năng phục hồi trên mức tâm lý quan trọng 1.900 USD/ounce.
Đồng xuống mức thấp nhất kể từ tháng 5
Giá đồng xuống mức thấp nhất trong gần 4 tháng tại London do Cục Dự trữ Liên bang Mỹ báo hiệu chính sách sẽ vẫn thắt chặt dài hơn, USD tăng lên mức cao nhất trong 6 tháng và lượng tồn kho kim loại tiếp tục tăng.
Đồng giao sau 3 tháng trên sàn giao dịch kim loại London giảm 1,8% xuống 8.193 USD/tấn sau khi chạm mức 8.171 USD/tấn, thấp nhất kể từ ngày 31/5.
Số liệu kinh tế tháng 8 tại Trung Quốc, nước tiêu thụ kim loại lớn nhất thế giới cho thấy những dấu hiệu ổn định ngay cả khi đầu tư trong lĩnh vực bất động sản sụt giảm.
Chỉ số USD cao nhất kể từ tháng 3 khiến các kim loại định giá bằng đồng bạc xanh này kém hấp dẫn cho người mua bằng các ngoại tệ khác.
Dự trữ đồng của LME đã tăng kể từ giữa tháng 7, đạt cao nhất kể từ tháng 5/2022.
Giá quặng sắt và thép giảm
Giá quặng sắt, thép và các thành phần sản xuất thép tại Trung Quốc giảm, do tâm lý rủi ro sau khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ báo hiệu một đợt tăng lãi suất nữa vào cuối năm nay và chính sách tiền tệ thắt chặt hơn trong năm 2024.
Các nhà đầu tư cho biết đã lựa chọn đợi chi tiết về cam kết của Trung Quốc nhằm đẩy nhanh việc triển khai nhiều chính sách hơn nữa để củng cố sự phục hồi kinh tế của nước này, trong khi đó lĩnh vực bất động sản khó khăn của nước này khiến họ phải đề phòng.
Quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2024 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên đóng cửa giảm 1,9% xuống 854 CNY (116,93 USD)/tấn, sau khi tăng trong hai phiên qua.
Tại Singapore, quặng sắt giao tháng 10 giảm khoảng 3,4% xuống 117,7 USD/tấn sau khi giữ trên 120 USD/tấn trong 7 ngày.
Trung Quốc, nhà sản xuất thép và tiêu thụ kim loại hàng đầu thế giới sẽ tăng cường giới thiệu thêm các chính sách để củng cố sự phục hồi kinh tế.
Quặng sắt tiếp tục tăng trong tháng này sau khi tăng mạnh trong tháng 8 nhờ các nỗ lực kích thích kinh tế của Trung Quốc, nhưng đà tăng dường như mất đi.
Tuy nhiên, các nhà phân tích cho biết giá quặng sắt vẫn được hỗ trợ trong bối cảnh dự trữ thấp tại các nhà máy thép và nhu cầu bổ sung trước kỳ nghỉ lễ Quốc khánh của Trung Quốc từ ngày 29/9 tới ngày 6/10.
Tại Thượng Hải, thép cây giảm 2%, thép cuộn cán nóng giảm 2,3% và thép không gỉ cũng giảm 2%.
Cao su Nhật Bản tăng
Giá cao su Nhật Bản phục hồi trong bối cảnh nói về chiến lược kinh doanh tại Trung Quốc, mặc dù nền kinh tế Nhật Bản chậm chạp đã hạn chế đà tăng.
Hợp đồng cao su giao tháng 2/2024 trên sàn giao dịch Osaka đóng cửa tăng 0,6 JPY hay 0,3% lên 234,3 JPY (1,58 USD)/kg.
Tại Thượng Hải giá cao su giao tháng 1/2024 giảm 180 CNY hay 1,26% xuống 14.065 CNY (1.926,08 USD)/tấn.
Tại nước tiêu dùng hàng đầu Trung Quốc đã có các cuộc đàm phán nhằm đẩy nhanh việc đưa thêm các chính sách để củng cố sự phục hồi kinh tế.
Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam và Thái Lan giảm
Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam và Thái Lan giảm trong tuần này từ mức cao gần đây, trong khi những hạn chế về xuất khẩu gạo đồ của Ấn Độ đã khiến hoạt động của nước này bị đình trệ.
Gạo 5% tấm của Ấn Độ được chào bán ở mức giá 525 - 535 USD/tấn tuần thứ hai liên tiếp, vẫn gần mức cao kỷ lục 520 - 540 USD/tấn đạt được trong ngày 31/8. New Delhi đã áp đặt thuế 20% với việc xuất khẩu gạo đồ trong tháng 8.
Tại Việt Nam, gạo 5% tấm được chào bán ở mức 610 – 620 USD/tấn so với giá 620 – 630 USD/tấn một tuần trước. Động thái gần đây của Philippines nhằm áp trần giá gạo đã làm hạ nhiệt giá gạo xuất khẩu của Việt Nam. Nhưng nguồn cung khan hiếm và nhu cầu mạnh từ các khách hàng khác sẽ khiến giá không giảm thêm.
Số liệu sơ bộ cho thấy 275.250 tấn đã được xuất khẩu tại cảng Thành phố Hồ Chí Minh từ 1 tới 22/9, đa số được xuất sang Indonesia, Malaysia, Philippines và Thổ Nhĩ Kỳ.
Giá gạo 5% tấm của Thái Lan được chào bán ở mức 605 USD/tấn, giảm từ mức 613 – 615 USD/tấn một tuần trước. Sự sụt giảm này là do đồng baht mất giá.
Trong khi đó, giá gạo tại Bangladesh vẫn cao, mặc dù sản lượng tốt và dự trữ ở mức kỷ lục.
Đường tăng
Đường thô kỳ hạn tháng 10 đóng cửa tăng 0,14 US cent hay 0,5% lên 26,93 US cent/lb.
Sản lượng đường của Ấn Độ dự kiến cải thiện do lượng mưa tốt trong tháng 9, ngoài ra chính phủ sẽ yêu cầu các nhà máy bán thêm đường dự trữ tại các thị trường trong nước để hạ giá.
Tuy nhiên, Ấn Độ dường như không xuất khẩu đường trong niên vụ 2023/24 do sản lượng sẽ ít hơn năm trước đó.
Giá đường tăng gần đây bởi lo ngại thời tiết khô hạn hơn bình thường sẽ làm giảm sản lượng tại Ấn Độ và Thái Lan.
Ngược lại, sản lượng đường khu vực trung nam của Brazil trong niên vụ 2023/24 ở mức 40,3 triệu tấn so với 39,45 triệu tấn trước đó.
Đường trắng kỳ hạn tháng 12 tăng 6,3 USD hay 0,9% lên 732,8 USD/tấn.
Cà phê giảm
Cà phê arabica kỳ hạn tháng 12 đóng cửa giảm 3,35 US cent hay 2,1% xuống 1,5485 USD/lb do vụ thu hoạch tại Brazil gần hoàn thành.
Vụ cà phê năm 2023 của Brazil đạt 54,36 triệu bao, giảm so với số liệu dự báo hồi tháng 5.
Cà phê robusta kỳ hạn tháng 11 giảm 44 USD hay 1,8% xuống 2.464 USD/tấn.
Việc giao dịch cà phê tại Việt Nam tiếp tục chậm chạp trong tuần này do không còn dự trữ, các thương nhân đợi vụ mới bắt đầu trong tháng tới, trong khi mức cộng giảm nhẹ tại Indonesia.
Giá cà phê tiếp tục tăng trong tuần này, nông dân tại Tây Nguyên đang bán cà phê ở mức 67.300 – 68.100 đồng/kg, tăng từ mức 65.300 – 66.500 đồng một tuần trước.
Về lý thuyết, vụ mùa mới tại Việt Nam bắt đầu vào tháng 10, nhưng phải đến cuối tháng 11 mới có hàng ra thị trường.
Tại Indonesia cà phê robusta Sumatra được chào ở mức cộng 480 USD so với hợp đồng kỳ hạn tháng 11 trong tuần này, giảm 20 USD so với một tuần trước.
Đậu tương, ngô, lúa mì giảm
Đậu tương trên sàn Chicago giảm dưới 13 USD/bushel lần đầu tiên trong một tháng do số lượng xuất khẩu hàng tuần thất vọng, vụ thu hoạch mở rộng và lo lắng về tăng trưởng kinh tế.
Đậu tương CBOT kỳ hạn tháng 11 đóng cửa giảm 26-1/4 US cent xuống 12,93-3/4 USD/bushel sau khi xuống 12,93 USD, mức thấp nhất của hợp đồng này kể từ ngày 8/8.
Lúa mì giảm xuống mức thấp nhất trong 1,5 tuần do việc bán ra, USD mạnh.
Lúa mì mềm đỏ vụ đông đóng cửa giảm 13 US cent xuống 5,75-3/4 USD/bushel sau khi giảm xuống 5,75 USD, mức thấp nhất kể từ ngày 12/9.
Ngô giảm do nhu cầu xuất khẩu tổng thể yếu cùng với những lo ngại về sức khỏe kinh tế toàn cầu. Ngô CBOT kỳ hạn tháng 12 giảm 7 US cent xuống 4,75-1/4 USD/bushel.