Kỳ họp bất thường lần thứ 5 diễn ra trong 3 ngày theo hình thức họp tập trung tại Nhà Quốc hội, Thủ đô Hà Nội, dự kiến bế mạc vào sáng 18/1/2024. Quốc hội nghỉ 1 ngày (17/1/2024) để các cơ quan của Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan hữu quan tiếp thu, chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo luật, dự thảo nghị quyết.
Tại kỳ họp lần này, Quốc hội sẽ xem xét, thông qua 4 nội dung, gồm: dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi); dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi); dự thảo Nghị quyết về một số cơ chế, chính sách đặc thù để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia (theo trình tự, thủ tục rút gọn); về việc bổ sung Kế hoạch đầu tư công trung hạn vốn ngân sách trung ương giai đoạn 2021-2025 từ nguồn dự phòng chung tương ứng với nguồn tăng thu ngân sách trung ương năm 2022 cho các nhiệm vụ, dự án đầu tư công và bổ sung Kế hoạch đầu tư công trung hạn cho Tập đoàn Điện lực Việt Nam từ nguồn dự phòng của Kế hoạch đầu tư công trung hạn.
Theo chương trình dự kiến, trong phiên khai mạc sáng nay (15/1), sau phần tuyên bố lý do kỳ họp của Tổng Thư ký Quốc hội Bùi Văn Cường, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ sẽ có bài phát biểu khai mạc Kỳ họp.
Tại phiên khai mạc, Uỷ viên Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh trình bày báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi). Sau phần thảo luận của đại biểu Quốc hội, Cơ quan trình và cơ quan thẩm tra phối hợp giải trình, làm rõ một số vấn đề đại biểu Quốc hội nêu.
Trong thông cáo báo chí phát đi trước đó, Tổng thư ký Bùi Văn Cường cho biết, dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi), sau khi được tiếp thu, chỉnh lý, dự thảo luật trình Quốc hội tại kỳ họp bất thường thứ 5 gồm 16 chương, 260 điều; bỏ 5 điều, sửa đổi, bổ sung tại 250 điều so với dự thảo luật trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 6 (cuối năm 2023).
Đối với những nội dung lớn xin ý kiến tại kỳ họp 6, trên cơ sở nghiên cứu, thảo luận, trao đổi và rà soát kỹ lưỡng, các cơ quan hữu quan đã thống nhất chỉnh lý, hoàn thiện nhiều nội dung.
Các nội dung đã được thống nhất, gồm: Về quyền và nghĩa vụ về sử dụng đất của người Việt Nam định cư ở nước ngoài; Về không mở rộng phạm vi nhận chuyển quyền sử dụng đất của tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (Điều 28); Về trường hợp tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài nhận chuyển nhượng dự án bất động sản theo quy định của pháp luật về kinh doanh bất động sản; Về quyền và nghĩa vụ của tổ chức kinh tế, đơn vị sự nghiệp công lập sử dụng đất thuê trả tiền hằng năm đối với tài sản gắn liền với đất (Điều 34); Về điều kiện đối với cá nhân không trực tiếp sản xuất nông nghiệp nhận chuyển nhượng đất trồng lúa (khoản 7 Điều 45); Về nguyên tắc lập và phê duyệt quy hoạch sử dụng đất các cấp (khoản 9 Điều 60); Về chỉ tiêu sử dụng đất được xác định trong nội dung quy hoạch sử dụng đất cấp tỉnh và cấp huyện (Điều 65 và Điều 66); Về tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, phân bổ chỉ tiêu sử dụng đất cấp tỉnh, chỉ tiêu sử dụng đất cấp huyện (Điều 76); Về thu hồi đất thực hiện dự án nhà ở thương mại, dự án hỗn hợp nhà ở và kinh doanh thương mại, dịch vụ (khoản 27 Điều 79); Về phát triển, khai thác và quản lý quỹ đất (Chương VIII); Về mối quan hệ giữa các trường hợp thu hồi đất và thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất hoặc đang có quyền sử dụng đất thực hiện dự án phát triển kinh tế - xã hội không sử dụng vốn ngân sách nhà nước; Về các loại đất thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất hoặc đang có quyền sử dụng đất; Về cấp Giấy chứng nhận cho hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có giấy tờ về quyền sử dụng đất không vi phạm pháp luật về đất đai, không thuộc trường hợp đất được giao không đúng thẩm quyền (Khoản 3 Điều 138); Về tiền thuê đất trả tiền thuê đất hằng năm (khoản 3 Điều 153); Về nội dung phương pháp định giá đất và trường hợp, điều kiện áp dụng từng phương pháp (Điều 158); Về hoạt động lấn biển (Điều 190); Về đối tượng được sử dụng đất quốc phòng, an ninh kết hợp với hoạt động lao động sản xuất, xây dựng kinh tế (khoản 1 Điều 201); quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp quân đội, công an khi sử dụng đất quốc phòng, an ninh kết hợp với hoạt động lao động sản xuất, xây dựng kinh tế (điểm h khoản 3 Điều 201);…
Luật Đất đai hiện hành có hiệu lực từ ngày 1/7/2014. Chính phủ từng trình và Quốc hội quyết định đưa dự luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai 2013 vào chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2019. Tuy nhiên sau đó, Chính phủ đề nghị lùi xem xét dự thảo luật 4 lần, trước khi được Quốc hội quyết định đưa vào chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2022.
Tại kỳ họp thứ 6 hồi tháng 11/2023, dự án Luật Đất đai (sửa đổi) dự kiến được Quốc hội biểu quyết thông qua nhưng sau đó, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quyết định hoãn lại bởi còn nhiều nội dung lớn có ý kiến khác nhau.