

“Tôi cố gắng ép mình không nghĩ quá xa về tương lai, điều khiến tôi đau đầu”, Tabi'in, một người lao động Indonesia 47 tuổi, nói một cách dè dặt. Ông từng là lãnh đạo công đoàn tại một nhà máy sản xuất nhưng công ty đó đóng cửa vào cuối năm ngoái như nhiều nhà máy khác ở quốc đảo này.
Tabi'in và vợ, người cũng đã mất công việc tại nhà máy, không đủ khả năng chi trả học phí đại học cho cậu con trai 19 tuổi – người hiện cũng chỉ biết quanh quẩn trong nhà.
Suốt vài tháng qua, niềm an ủi duy nhất của gia đình này là khoản lương tạm thời mà Tabi'in nhận được trong vai trò bảo vệ những gì còn sót lại của nhà máy đã đóng cửa. Giờ đây, anh phải xoay sở bằng những công việc lặt vặt, chẳng hạn như may vá hay làm đồ ăn vặt để bán cho những người bán rong xung quanh.

Cuộc chiến thương mại toàn cầu của Mỹ đang đe dọa khép lại kỷ nguyên thương mại tự do, vốn đã mở ra những cơ hội mới cho các nước đang phát triển. Cộng với đó, sự thống trị của Trung Quốc với danh xưng “công xưởng của thế giới” khiến các quốc gia khác khó có thể làm giàu chỉ nhờ xuất khẩu.
Ở thời điểm hiện tại, Indonesia gần như đã chốt được mức thuế quan “có đi có lại” với Mỹ. Theo đó, nền kinh tế số 1 Đông Nam Á hứng chịu mức thuế 19% với hàng hóa nhập khẩu vào Mỹ, một mức tăng khiến lãnh đạo các doanh nghiệp địa phương lo sợ nhu cầu với hàng hóa của họ như quần áo, giày dép và dầu cọ, sẽ giảm sút. Thỏa thuận cũng nêu rõ nếu hàng hóa Indonesia chứa lượng lớn thành phần từ các quốc gia khác, đặc biệt là Trung Quốc, thì chúng sẽ đối mặt với mức thuế lên tới 40%. Tuy nhiên, cách để xác định các điều kiện này chưa được công bố.
Trong khi đó, hàng hóa giá rẻ của Trung Quốc nhập khẩu vào Indonesia tiếp tục tăng mạnh khi các nhà sản xuất bán tháo sản phẩm. Điều này gây thêm áp lực cho các nhà sản xuất Indonesia. Vào tháng 4, khi ông Trump công bố mức thuế mà cuối cùng đạt đỉnh 145% với hàng hóa Trung Quốc, xuất khẩu của Bắc Kinh sang Indonesia tăng vọt 34%.

Bắt đầu từ những năm 1990, Indonesia và nhiều quốc gia khác được ví như những kỳ tích kinh tế nhờ toàn cầu hóa. Sự tăng trưởng nhanh chóng giúp họ bắt đầu thu hẹp đáng kể khoảng cách giàu nghèo với các quốc gia phương Tây. Tuy nhiên, ngoài một vài câu chuyện thành công chẳng hạn như Guyana giàu dầu mỏ hay Việt Nam, tăng trưởng ở các nước đang phát triển đã chậm lại trong những năm gần đây.
Các chuyên gia phân tích tại ngân hàng đầu tư Jefferies cảnh báo sự tăng trưởng của tầng lớp trung lưu thấp của các nền kinh tế mới nổi - những người có sức mua từ 3,65 USD đến 20 USD/ngày - đã gần như chững lại vào năm 2019. Tính theo bình quân đầu người, các quốc gia có thu nhập trung bình (bao gồm hàng chục quốc gia từ Nigeria đến Trung Quốc) đã chứng kiến thu nhập giảm xuống còn 8% so với của Mỹ vào năm 2022. Theo số liệu của Ngân hàng thế giới, thu nhập của nhóm này bằng 9% của Mỹ vào năm 2014, tăng mạnh từ mức 3% ở đầu thiên niên kỷ.

Tại Indonesia, số người được phân loại vào tầng lớp trung lưu giảm 9,5 triệu trong 5 năm qua trong khi số người thuộc tầng lớp thu nhập kém hơn lại đang tăng lên. Đồng rupiah của nước này gần đây cũng giảm xuống mức thấp nhất 20 năm.
Những điều này cũng đồng nghĩa với triển vọng ảm đạm hơn cho hàng tỷ người. Nó làm gia tăng nguy cơ bất ổn chính trị và áp lực di cư gia tăng. Nó cũng làm giảm cơ hội cho các công ty đa quốc gia như Unilever và Nestlé, những công ty vốn hưởng lợi từ hàng trăm triệu người tiêu dùng mới, rơi vào thế khó khi khách hàng sụt giảm.
“Tôi có thể hình dung ra một kỷ nguyên tăng trưởng khác cho các quốc gia này. Tuy nhiên, do các chính sách thương mại cứng rắn hơn ở các nước giàu cùng nhiều yếu tố khác, khả năng những điều này xảy ra hiện nay là rất thấp”, Indermit Gill, chuyên gia kinh tế trưởng của WB, nói trong một cuộc phỏng vấn năm ngoái.

Gần đây nhất là vào năm 2021, triển vọng của các nước đang phát triển được đánh giá là tươi sáng hơn đáng kể. Năm đó, một nhóm các nhà nghiên cứu, bao gồm Dev Patel tại Đại học Harvard, báo cáo rằng lần đầu tiên trong 500 năm qua, phần còn lại của thế giới đang dần bắt kịp sự giàu có của các xã hội phương Tây.
Các tác giả lưu ý rằng các nước đang phát triển đạt được tăng trưởng kinh tế nhanh hơn các nước công nghiệp hóa kể từ những năm 1990. Nhiều nước đi theo một con đường đã được chứng minh hiệu quả: Xuất khẩu để làm giàu, bắt đầu với các hàng hóa giá rẻ như may mặc và sau đó chuyển sang các sản phẩm phức tạp hơn, chẳng hạn như đồ điện tử. Nhật Bản và Đài Loan (Trung Quốc) là những nền kinh tế đã thành công với mô hình đó từ nhiều thập kỷ trước.
Tuy nhiên, mô hình này đứng bên bờ vực sụp đổ kể từ thời điểm ông Trump trở thành Tổng thống Mỹ lần đầu tiên. Tư tưởng nước Mỹ là trên hết đã khiến nền kinh tế số 1 thế giới quay lưng với toàn cầu hóa. Ông Trump muốn việc làm trở lại cho người Mỹ, nhà máy mọc trên đất Mỹ và không ai được “thu lợi” trong giao thương với Mỹ….

Trong khi đó, nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới là Trung Quốc, lại trở nên quá mạnh trong lĩnh vực sản xuất toàn cầu. Các quốc gia khác khó lòng giành được thêm nhiều thị phần trên thị trường thương mại toàn cầu. Bắc Kinh sở hữu sự kết hợp độc đáo giữa hàng loạt lợi thế, bao gồm lực lượng lao động khổng lồ với chi phí rẻ, đội ngũ chuyên gia được đào tạo bài bản, cảng biển và đường xá chất lượng cao cùng một chính phủ ủng hộ mạnh mẽ cho công nghiệp với hàng loạt trợ cấp.
Các chủ nhà máy ở Indonesia, Ấn Độ và nhiều nơi khác cảm nhận rõ áp lực từ các đối thủ cạnh tranh Trung Quốc, khi khách hàng yêu cầu họ phải đưa ra mức giá cạnh tranh được với các sản phẩm Made in China. Hậu quả là nhiều nhà cung cấp lựa chọn từ bỏ cuộc chơi.
“Những động lực bảo hộ đang nổi lên trên toàn thế giới dường như thực sự đe dọa các nước nghèo”, Patel, đồng tác giả của báo cáo năm 2021, cho biết trong cuộc phỏng vấn vào tháng 6/2024. Theo đó, kỷ nguyên “hội tụ”, trong đó phía Nam bán cầu thu hẹp khoảng cách với thế giới giàu có, đã bị đình trệ. Lý do chủ yếu là bởi các rào cản thương mại gia tăng.
Khi Mỹ bắt đầu mạnh tay đánh thuế hàng hóa Trung Quốc, nhiều người tin vào một sự dịch chuyển sản xuất ra khỏi nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới. Tuy nhiên, điều đó đã không xảy ra.
“Người ta từng hy vọng rằng khi chi phí lao động ở Trung Quốc tăng lên, hoạt động sản xuất sẽ dịch chuyển sang các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình khác. Tuy nhiên, điều này phần lớn đã không xảy ra”, Dani Rodrik, một nhà kinh tế tại Đại học Harvard, nhận định.

Theo vị chuyên gia này, khi sản xuất ngày càng được thúc đẩy bởi công nghệ, các nước nghèo không còn có thể dựa vào lợi thế về nguồn lao động giá rẻ dồi dào nữa. Những điểm đến từng được coi là tiềm năng và đầy hứa hẹn, chẳng hạn như Bangladesh, không thể mở rộng sang các ngành sản xuất mới ngoài may mặc.
Điều này có vẻ không giống những gì từng xảy ra trong quá khứ. 35 năm trước, khi chi phí ở các nơi như Hàn Quốc hay Đài Loan trở nên đắt đỏ, các nhà đầu tư đã đổ xô đến quần đảo Indonesia đông dân cư, nơi sản xuất giày thể thao cho Nike, búp bê Barbie cho Mattel hay những mặt hàng xuất khẩu sang Mỹ và châu Âu khác.
Mặc dù sự trỗi dậy của Trung Quốc tạo ra sự cạnh tranh gay gắt trên toàn cầu nhưng các nhà đầu tư vẫn ca ngợi Indonesia là một ngôi sao kinh tế đang lên. Quốc gia này có nền tảng sản xuất vững chắc, nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và dân số đông. Tuy nhiên, khi Chính phủ Trung Quốc mạnh tay hỗ trợ để duy trì cạnh tranh nhờ tự động hóa, các nỗ lực của Indonesia đã không thể theo kịp.
Và khi nền kinh tế Trung Quốc gặp khó cùng các đợt áp thuế của phía Mỹ, các nhà sản xuất nước này không muốn dừng lại. Hệ quả là hàng giá rẻ của họ ngập tràn thị trường, khiến mọi đối thủ cạnh tranh lâm vào bế tắc.
Khi các ngành sản xuất truyền thống đối diện khó khăn, Indonesia dường như đang muốn đặt cược vào mảng xe điện và pin với lợi thế sở hữu các nguồn vật liệu quan trọng, chẳng hạn như Nikken. Tuy nhiên, thị trường xe điện vẫn là một thị trường mà Trung Quốc thực sự thống trị. Trong khi đó, sản lượng tiêu thụ xe điện trong nước của Indonesia cũng không mấy khả quan khi tầng lớp trung lưu đang ngày càng giảm. Câu hỏi đặt ra là nếu thành công, xe điện và pin của Indonesia sẽ bán cho ai?
Tham khảo: WSJ