Theo báo cáo của Tổng cục Hải quan, tổng trị giá xuất nhập khẩu hàng hóa của cả nước trong tháng 6/2023 đạt 55,81 tỷ USD, tăng 3,2%, tương ứng tăng 1,74 tỷ USD so với tháng trước; trong đó, xuất khẩu đạt 29,45 tỷ USD, tăng 5%, tương ứng tăng 1,41 tỷ USD và nhập khẩu là 26,36 tỷ USD, tăng 1,3%, tương ứng tăng 327 triệu USD.
Lũy kế trong 6 tháng/2023, tổng trị giá xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam đạt 316,52 tỷ USD, giảm 15,2%, tương ứng giảm 56,67 tỷ USD về số tuyệt đối so với cùng kỳ năm 2022; trong đó xuất khẩu đạt 164,68 tỷ USD, giảm 12% (tương ứng giảm 22,49 tỷ USD) và nhập khẩu đạt 151,84 tỷ USD, giảm 18,4% (tương ứng giảm 31,18 tỷ USD).
Trong 6 tháng năm 2023, tổng trị giá xuất nhập khẩu của Việt Nam với châu Á là 204,98 tỷ USD, chiếm tỷ trọng lớn nhất 64,8% trong tất cả các châu lục và giảm 14,8% so với cùng kỳ năm trước. Tiếp theo là châu Mỹ với 64,29 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 20,3%, giảm 19,9%; châu Âu là 35,5 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 11,2%, giảm 9,6%; châu Đại Dương với 7,67 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 2,4%, giảm 14,5%; châu Phi với 4,08 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 1,3%, giảm 0,7% so với cùng kỳ năm trước.
Cũng theo thống kê của Tổng cục Hải quan, trong 6 tháng 2023, Việt Nam xuất khẩu trị giá 25,9 tỷ USD sang Trung Quốc và 44,4 tỷ USD cho thị trường Mỹ.
Xuất khẩu trong tháng 6/2023 đạt 29,45 tỷ USD, tăng 5% so với tháng trước. Với kết quả này, quy mô hàng hóa xuất khẩu trong tháng tăng 1,41 tỷ USD so với tháng trước.
Diễn biến xuất khẩu của các nhóm hàng trong tháng 6/2023 tăng giảm không đồng đều, một số nhóm hàng tăng mạnh nhưng cũng có một số nhóm hàng giảm sâu so với tháng trước. Cụ thể: điện thoại các loại và linh kiện tăng 37,2%, tương ứng tăng 1,09 tỷ USD; than các loại tăng 179% về lượng và tăng 139% về trị giá; cao su tăng 53,1% về lượng và tăng 50,4% về trị giá; diễn biến ở chiều ngược lại là các nhóm hàng như đá quý, kim loại quý và sản phẩm giảm 46,7%; quặng và khoáng sản khác giảm 43,3% về lượng và giảm 48,2% về trị giá; dầu thô giảm 36,2% về lượng và giảm 39,5% về trị giá; gạo giảm 14,7% về lượng và giảm 12,8% về trị giá so với tháng trước.
Tổng trị giá xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam trong 6 tháng/2023 là 164,68 tỷ USD, giảm 12% và có 37/45 nhóm hàng giảm so với cùng kỳ năm trước.
Trong 6 tháng đầu năm nay, Việt Nam đã có tới 7 nhóm hàng trị giá xuất khẩu giảm trên 1 tỷ USD so với cùng kỳ năm trước. Đó là các nhóm hàng điện thoại các loại và linh kiện giảm 5,39 tỷ USD; hàng dệt may giảm 2,86 tỷ USD; gỗ và sản phẩm gỗ giảm 2,39 tỷ USD; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện giảm 2,21 tỷ USD; giày dép các loại giảm 1,98 tỷ USD; máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng giảm 1,79 tỷ USD và hàng thủy sản giảm 1,54 tỷ USD. Tính chung, trị giá xuất khẩu của 7 nhóm hàng này giảm tới 18,15 tỷ USD, bằng 81% mức giảm trị giá xuất khẩu của cả nước.
Tuy nhiên, xuất khẩu một số nhóm hàng trong 6 tháng/2023 vẫn đạt mức tăng cao so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể, hàng rau quả tăng hơn 1 tỷ USD; phương tiện vận tải và phụ tùng tăng 906 triệu USD; gạo tăng 550 triệu USD.
Mỹ và Trung Quốc đóng vai trò quan trọng trong việc xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam. Chẳng hạn, trong 6 tháng/2023, Việt Nam xuất khẩu điện thoại các loại và linh kiện sang các thị trường chủ lực như Trung Quốc là 6,33 tỷ USD, Hoa Kỳ là 4,08 tỷ USD và Hàn Quốc là 1,59 tỷ USD.
Cũng trong khoảng thời gian này, nước ta xuất máy vi tính sản phẩm điện tử & linh kiện sang thị trường Hoa Kỳ là 7,36 tỷ USD, Trung Quốc là 6,13 tỷ USD. Các thị trường nhập khẩu máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng từ Việt Nam trong 6 tháng/2023 chủ yếu gồm Hoa Kỳ với 7,93 tỷ USD, EU 2,79 tỷ USD, Trung Quốc với 1,48 tỷ USD, Nhật Bản với 1,33 tỷ USD...
Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của hàng dệt may Việt Nam. Trong 6 tháng/2023, xuất khẩu hàng dệt may sang Hoa Kỳ là 6,95 tỷ USD và chiếm 44% trị giá xuất khẩu nhóm hàng này của cả nước.
Việt Nam xuất giày dép các loại sang Hoa Kỳ, trong 6 tháng/2023, là 3,34 tỷ USD, Trung Quốc là 863 triệu USD.