Cụ thể, báo cáo cho biết, Việt Nam là một quốc gia có thu nhập trung bình thấp, với GDP bình quân đầu người theo sức mua tương đương (PPP) ước đạt 17.688 USD vào năm 2025. Trong những năm gần đây, Việt Nam duy trì tốc độ tăng trưởng GDP mạnh mẽ, vượt mức trung bình toàn cầu, thuộc nhóm cao nhất trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
Các chuyên gia CEBR dự báo, tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm được dự báo sẽ giảm xuống mức trung bình 5,5% trong giai đoạn 2026–2030. Nguyên nhân chính được cho là xuất khẩu suy yếu, khi căng thẳng thương mại và tăng trưởng chậm lại tại các đối tác lớn như Mỹ, Trung Quốc và Liên minh châu Âu làm giảm nhu cầu.
Trong thập kỷ tiếp theo, CEBR dự báo nền kinh tế Việt Nam sẽ tăng trưởng trung bình 5,3% mỗi năm. Trong vòng 15 năm tới, vị thế của Việt Nam trên Bảng xếp hạng Kinh tế Thế giới sẽ có sự cải thiện. Cụ thể, quy mô GDP của Việt Nam được dự báo sẽ đạt 524 tỷ USD trong năm 2025 và đến năm 2040, quy mô GDP của Việt Nam sẽ đạt 1.407 tỷ USD, trở thành nền kinh tế lớn thứ 27 trên thế giới.
Theo báo cáo về kinh tế - xã hội của Chính phủ, Kinh tế Việt Nam khẳng định đủ sức chống chịu trước các cú sốc bên ngoài, duy trì tốc độ tăng trưởng thuộc nhóm cao hàng đầu thế giới. GDP năm 2025 dự kiến tăng trên 8%. Quy mô nền kinh tế tăng từ 346 tỷ USD năm 2020 lên 510 tỷ USD năm 2025, tăng 5 bậc, lên vị trí 32 thế giới.

Không chỉ vậy, báo cáo cũng đánh giá, song song với tăng trưởng kinh tế vững chắc, Việt Nam đạt được sự cân bằng tích cực giữa tăng trưởng và lạm phát trong năm 2025, với mức tăng lạm phát dự kiến khoảng 3,4%. Dù cao hơn mức trung bình 2,6% của giai đoạn 5 năm trước 2019, lạm phát vẫn sát mục tiêu 3,3% của Chính phủ và thấp hơn đáng kể so với mức tăng giá mạnh tại nhiều nền kinh tế khác.
Bên cạnh đó, tỷ lệ thất nghiệp của Việt Nam vẫn tương đối ổn định ở mức 2,2%. Song, các chuyên gia CEBR lưu ý, dù yếu tố này góp phần duy trì sức cầu tiêu dùng, tình trạng thất nghiệp thấp kéo dài cũng có thể phản ánh những thiếu hụt lao động mang tính cấu trúc, có nguy cơ kìm hãm tăng trưởng trong tương lai nếu năng suất không được cải thiện.
Nợ công của Việt Nam tính theo tỷ lệ GDP tăng nhẹ lên khoảng 32,0% trong năm 2025, vẫn ở mức thấp so với các quốc gia cùng nhóm và tạo dư địa tài khóa đáng kể để đầu tư vào các biện pháp nâng cao năng suất. Trước đó, nợ khu vực công ở mức 31,3% GDP vào năm 2024. Trong bối cảnh này, Chính phủ đã duy trì mức thâm hụt ngân sách tương đối cao trong năm 2025, ước khoảng 3,3% GDP, một phần nhờ khai thác dư địa tài khóa từ mức nợ công thấp. Khoản chi bổ sung này nhiều khả năng đã hỗ trợ hoạt động kinh tế trong những tháng gần đây.

