Những lựa chọn chính sách trong năm 2026 sẽ quyết định liệu sự phục hồi chỉ mang tính ngắn hạn hay thực sự mở ra một chu kỳ phát triển bền vững hơn cho nền kinh tế.
Kinh tế Việt Nam tăng trưởng thuộc nhóm cao hàng đầu khu vực
Tại Diễn đàn Kinh tế Việt Nam 2025, Thủ tướng Chính phủ khẳng định, nhờ sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và người dân, tình hình kinh tế – xã hội đạt nhiều kết quả nổi bật, toàn diện hơn so với năm 2024.
Nổi bật là, kinh tế Việt Nam thể hiện sức chống chịu kiên cường và đạt tốc độ tăng trưởng thuộc nhóm cao hàng đầu khu vực, thế giới. GDP năm 2025 dự kiến tăng trên 8%, đưa quy mô nền kinh tế lên khoảng 510 tỷ USD, xếp thứ 32 thế giới; thu nhập bình quân đầu người khoảng 5.000 USD, đưa Việt Nam bước vào nhóm thu nhập trung bình cao.

Bên cạnh đó, lạm phát được kiểm soát, các cân đối lớn được bảo đảm, nợ công và bội chi ngân sách duy trì ở mức an toàn. Thu ngân sách nhà nước ước vượt khoảng 25% dự toán; tổng kim ngạch xuất nhập khẩu lần đầu vượt mốc 900 tỷ USD.
Chính sách tiền tệ “mềm hóa có kiểm soát”, theo đó mặt bằng lãi suất hạ nhiệt, thanh khoản hệ thống được cải thiện. Tuy nhiên, áp lực tăng trưởng cao cũng đặt ra thách thức mới.
Hiện xu hướng lãi suất huy động tăng trở lại đang đặt ra những lo ngại về chi phí vốn và nguy cơ nợ xấu. Ngân hàng Nhà nước đã phải chủ động can thiệp thông qua nghiệp vụ thị trường mở và hoán đổi ngoại tệ nhằm ổn định thanh khoản.
Tạo hành lang pháp lý cho thị trường bất động sản rõ ràng hơn
Với sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, năm 2025 đánh dấu bước chuyển quan trọng khi Luật Đất đai 2024, Luật Nhà ở 2023 và Luật Kinh doanh Bất động sản 2023 đã tạo ra hành lang pháp lý rõ ràng hơn, phân định trách nhiệm giữa các cấp, từng bước tháo gỡ các dự án tồn đọng kéo dài nhiều năm. Điều này đã tác động mạnh mẽ đến thị trường bất động sản nói chung và thị trường nhà ở nói riêng.
Thị trường bất động sản đã có sự hồi phục và phát triển tốt. Theo đó, nguồn cung bất động sản, trên địa bàn tăng, cả nước hiện có 3.297 dự án nhà ở thương mại, nhà ở xã hội, đất nền, có quy mô 5,9 triệu căn và tổng mức đầu tư là 7,42 triệu tỷ đồng.

Du lịch, nghỉ dưỡng có 218 dự án có quy mô gồm 10,8 nghìn căn và tổng mức đầu tư là 1,86 triệu tỷ đồng (112 dự án đã hoàn thành, 74 dự án đang triển khai và 32 dự án đã chấp thuận chủ trương đầu tư).
Công trình thương mại, dịch vụ, văn phòng có 223 dự án có tổng mức đầu tư là 544,3 nghìn tỷ đồng (138 dự án đã hoàn thành, 65 dự án đang triển khai và 20 dự án đã chấp thuận chủ trương đầu tư).
Có 447 khu công nghiệp đã thành lập với tổng diện tích đất công nghiệp đạt khoảng 93.000 ha (304 dự án đã hoàn thành và 143 dự án đang triển khai).
Đặc biệt, chính sách về xây dựng 1 triệu căn nhà ở xã hội bước đầu có tác động tích cực. Kết quả thực hiện năm 2025, cả nước hoàn thành 102.633 căn nhà ở xã hội, vượt kế hoạch đề ra là 100.275 căn, với mức giá trung bình dao động từ 15–25 triệu đồng/m².
Thị trường vốn trở thành trụ cột huy động nguồn lực trung và dài hạn
Cùng với bất động sản, thị trường trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) cũng ghi nhận sự phục hồi mạnh mẽ. Năm 2025, tổng giá trị phát hành TPDN ước đạt hơn 440.000 tỷ đồng, dẫn đầu bởi nhóm ngân hàng khoảng 73 - 77%, bất động sản 18 - 20%. Hoạt động mua lại trước hạn sôi động giúp giảm áp lực đáo hạn, trong khi khung pháp lý mới theo Luật Chứng khoán 2024 nâng cao yêu cầu minh bạch và quản trị rủi ro.
Bà Phạm Thị Thanh Tâm, Phó Vụ trưởng Vụ Các định chế tài chính (Bộ Tài chính), cho biết tổng vốn huy động qua thị trường trái phiếu năm 2025 đạt hơn 730.000 tỷ đồng, tương đương 27% tổng vốn đầu tư toàn xã hội; quy mô thị trường đạt 3,83 triệu tỷ đồng, tương đương 33,3% GDP năm 2024. Trong đó, phát hành trái phiếu chính phủ (TPCP) tiếp tục là kênh huy động chủ đạo, đóng góp 70% nhu cầu vốn của ngân sách trung ương và khoảng 80% tổng huy động vốn trong nước giai đoạn 2021–2025.
Để đạt mục tiêu tăng trưởng hai con số giai đoạn 2026-2030, tổng vốn đầu tư toàn xã hội được tính toán cần đạt bình quân khoảng 40% GDP. Điều này đòi hỏi phải đổi mới mạnh mẽ tư duy huy động và sử dụng nguồn lực, trong đó lấy nội lực làm nền tảng chiến lược, lâu dài; ngoại lực giữ vai trò quan trọng, mang tính đột phá.
Nền kinh tế trọng tâm không chỉ là huy động cho đủ vốn mà quan trọng hơn là phân bổ đúng chỗ, sử dụng hiệu quả và tạo giá trị gia tăng cao.
Thứ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Thành Trung cho rằng, trên cơ sở đó, chính sách tài khóa cần tiếp tục đóng vai trò kiến tạo tăng trưởng dài hạn, được điều hành chủ động, bền vững, có trọng tâm, trọng điểm; cơ cấu lại chi ngân sách theo hướng tăng tỷ trọng chi đầu tư phát triển, tập trung cho hạ tầng chiến lược, hạ tầng liên vùng, hạ tầng số, năng lượng và chuyển đổi xanh.
Song song với đó, thị trường vốn cần được phát triển trở thành trụ cột huy động nguồn lực trung và dài hạn, từng bước giảm sự phụ thuộc vào tín dụng ngân hàng. Việc xây dựng thị trường vốn minh bạch, an toàn, có chiều sâu sẽ là điều kiện để thu hút hiệu quả các dòng vốn dài hạn trong và ngoài nước.
Năm 2026 – “chìa khóa” chính sách cho chu kỳ mới
Bước sang năm 2026, thách thức đặt ra với Chính phủ không chỉ là duy trì nhịp phục hồi, tăng trưởng 2 con số, mà là nâng cấp chất lượng tăng trưởng của bất động sản và thị trường tài chính.
Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết, Việt Nam xác định rõ, ổn định là "pháo đài bất khả xâm phạm"; phát triển nhanh, bền vững là "động cơ vĩnh cửu" không có điểm dừng; giàu mạnh, ấm no, hạnh phúc của người dân là mục tiêu cao nhất; không hy sinh tiến bộ, công bằng, an sinh xã hội, môi trường để chạy theo tăng trưởng đơn thuần.
.png)
Đồng thời thực hiện nhất quán mục tiêu giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn. Trọng tâm chính sách được xác định là phối hợp chặt chẽ giữa tài khóa - tiền tệ - cải cách thể chế, khơi thông dòng vốn trung và dài hạn cho bất động sản và hạ tầng, đồng thời phát triển thị trường vốn như một trụ cột song hành với hệ thống ngân hàng.
Theo đó, thúc đẩy phát triển nhanh, bền vững trên nền tảng "chuyển đổi kép: xanh hoá và số hoá", phấn đấu tăng trưởng đạt 2 con số gắn với giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế
Đẩy mạnh thực hiện đột phá chiến lược về thể chế, từ "điểm nghẽn của điểm nghẽn" trở thành lợi thế cạnh tranh quốc gia, là động lực chủ yếu của phát triển nhanh, bền vững
Về dài hạn, giai đoạn 2026–2030 đặt mục tiêu tăng trưởng hai con số, đòi hỏi huy động và phân bổ nguồn lực tài chính ở quy mô chưa từng có. “Bộ tứ trụ cột” chính sách (Nghị quyết 57, 59, 66 và 68) – từ đổi mới sáng tạo, hội nhập quốc tế, cải cách pháp luật đến phát triển kinh tế tư nhân – sẽ đóng vai trò dẫn dắt các động lực tăng trưởng mới.
Nếu các chính sách được triển khai đồng bộ, minh bạch và có trọng tâm, năm 2026 hoàn toàn có thể trở thành điểm khởi đầu cho một chu kỳ phát triển mới – nơi thị trường vận hành trên nền tảng kỷ luật, doanh nghiệp chủ động thích ứng và Nhà nước đóng vai trò kiến tạo. Đó cũng là tiền đề để kinh tế Việt Nam tự tin bước vào giai đoạn tăng trưởng nhanh hơn, bền vững hơn trong kỷ nguyên mới.

