Tại Hội nghị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã khái quát 13 nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu và yêu cầu các bộ, ngành, địa phương theo chức năng, nhiệm vụ được giao chủ động tập trung triển khai thực hiện, bao gồm:
(1) Điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, nhưng bảo đảm thận trọng, chặt chẽ, hiệu quả; phối hợp chặt chẽ, đồng bộ với chính sách tài khóa để kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Bảo đảm ổn định tỷ giá, thị trường tiền tệ, ngoại hối; tăng trưởng tín dụng hợp lý.
(2) Tiếp tục thực hiện chính sách tài khoá mở rộng hợp lý, có trọng tâm, trọng điểm, bảo đảm hiệu quả, hỗ trợ tích cực, hiệu quả chính sách tiền tệ. Đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công, Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, 3 chương trình mục tiêu quốc gia.
Tiếp tục rà soát, cắt giảm các loại thuế, phí, lệ phí phù hợp. Tăng cường kỷ luật tài chính – ngân sách Nhà nước ở tất cả các cấp, các ngành, các địa phương; tăng thu, tiết kiệm chi. Tăng cường quản lý nợ công và bảo đảm khả năng trả nợ, bảo đảm an toàn nợ công (tỉ lệ nợ công tiếp tục xu hướng giảm từ khoảng 64% GDP năm 2016 còn khoảng 43% hiện nay).
Tăng cường công khai, minh bạch, phát triển ổn định, lành mạnh thị trường chứng khoán, thị trường trái phiếu doanh nghiệp để tạo kênh huy động vốn trung và dài hạn quan trọng cho nền kinh tế, trong đó sớm ban hành Nghị định sửa đổi Nghị định 153 về chào bán, giao dịch trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ tại thị trường trong nước và chào bán trái phiếu doanh nghiệp ra thị trường quốc tế.
(3) Tăng cường quản lý, kiểm tra, giám sát thị trường, giá cả, nhất là đối với các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất, đời sống như xăng dầu.
(4) Đẩy mạnh phát triển thị trường nội địa, thúc đẩy cầu nội địa (bằng đầu tư hạ tầng chiến lược, thu hút đầu tư, tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập người dân), đồng thời đa dạng hóa các thị trường quốc tế, đẩy mạnh xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu hàng Việt Nam, thúc đẩy xuất khẩu và thặng dư thương mại bền vững.
(5) Tiếp tục rà soát, hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách để khơi thông, huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực thúc đẩy phục hồi nhanh và phát triển bền vững. Phát triển du lịch, dịch vụ, nghiên cứu chính sách visa phù hợp.
(6) Đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, đổi mới công nghệ, thúc đẩy chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thích ứng biến đổi khí hậu, chuyển đổi năng lượng, nâng cao sức cạnh tranh và khả năng chống chịu của nền kinh tế, thu hút đầu tư nước ngoài vào các lĩnh vực này. Xây dựng chính sách khuyến khích phát triển ngành công nghiệp chuyển đổi năng lượng.
(7) Nâng cao năng lực chỉ đạo điều hành, sự phối hợp và công tác điều phối chính sách kinh tế vĩ mô nhằm bảo đảm tính đồng bộ, hiệu quả, linh hoạt giữa các công cụ chính sách. Khẩn trương kiện toàn Ban chỉ đạo liên ngành về quản lý, điều hành kinh tế vĩ mô.
(8) Đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; tăng cường phòng chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí; qua đó vừa góp phần tạo nền tảng cho phát triển bền vững, vừa góp phần củng cố niềm tin trong nhân dân.
(9) Tiếp tục thực hiện nhất quán chủ trương, chính sách về xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả.
(10) Chú trọng hơn nữa đến phát triển các lĩnh vực văn hóa, xã hội; bảo đảm an sinh xã hội, đời sống nhân dân; tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền. Xác định con người là trung tâm, chủ thể, là mục tiêu, động lực và nguồn lực phát triển; không hy sinh tiến bộ, công bằng, an sinh xã hội, môi trường để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần.
(11) Đẩy mạnh thông tin truyền thông, góp phần tạo đồng thuận xã hội và sự chung sức, đồng lòng của nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp ủng hộ, tham gia tích cực trong thực hiện mục tiêu ổn định vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng và bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế.
(12) Kiểm soát hiệu quả dịch bệnh và bảo đảm sức khỏe người dân, coi tính mạng, sức khỏe người dân là trên hết, trước hết; đẩy mạnh tiêm vaccine phòng COVID-19 và bảo đảm đủ thuốc, trang thiết bị, vật tư y tế.
(13) Đẩy mạnh hợp tác công tư để thu hút các nguồn lực cho phát triển hạ tầng chiến lược, chuyển đổi xanh, chuyển đổi số.
Đưa tiền ra nhiều hay ít là vấn đề cần quan tâm, nhưng quan trọng hơn là đưa tiền ra có trúng, có đúng vào các động lực cho nền kinh tế gồm đầu tư, xuất khẩu và tiêu dùng không? Tinh thần là không siết chặt một cách bất hợp lý, mà quan trọng là linh hoạt, hợp lý, hiệu quả.
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính
Ông Cao Viết Sinh, nguyên Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Nên đặt điều hành kinh tế gắn với an sinh xã hội
Theo ông Cao Viết Sinh nhận định, 8 tháng qua tăng trưởng kinh tế tăng trưởng kinh tế cao như vậy, nguyên nhân rất quan trọng là cầu trong nước cao, đặc biệt xuất khẩu tăng cao.
Tuy nhiên, liệu đà này có còn cho 4 tháng còn lại hay không? 8 tháng xuất khẩu tăng 17%, nhưng trong 4 tháng còn lại nhu cầu các nước thị trường chính của Việt Nam đều rất gay go, suy thoái. Điều này đặt ra bài toán cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng. Bộ Công Thương cần nghiên cứu tác động chỗ đó như thế nào.
Về chính sách tiền tệ, chúng ta neo tỷ giá, nhưng trước việc tăng lãi suất của FED, ECB, chúng ta neo tỷ giá như vậy thì tác động đến xuất nhập khẩu, đồng vốn như thế nào? Ông Cao Viết Sinh đề nghị NHNN nghiên cứu vấn đề này.
Về dự thảo chỉ thị, ông Sinh cho rằng, nếu xây dựng chỉ thị cho 4 tháng cuối năm thì ngắn quá, nên chăng kéo dài quý I/2023. Về mục tiêu trong chỉ thị, chúng tôi đồng tình dự thảo chỉ tiêu phấn đấu cả năm nay trên 7,5%. Quý III chúng ta tăng trưởng cao, quý III năm ngoái chúng ta âm 6,02%. Quý III năm nay có thể tăng trưởng trên 10%. Quý IV có thể tăng trên 7,5%, nên chúng tôi ủng hộ đặt vượt mục tiêu 7,5%. Nên chăng đặt mục tiêu cho Quý I/2023, có kế thừa phấn đấu cho năm tới.
Chúng tôi hoan nghênh mục tiêu giải ngân vốn đầu tư công đặt ra 95-100%. Năm nay phấn đấu giải ngân đạt 100%. Tôi cho rằng mục tiêu này là một quyết sách rất lớn và phải rất quyết liệt để thực hiện.
Về mục tiêu điều hành, dự thảo chỉ thị đặt vấn đề chủ yếu điều hành kinh tế, tôi đề nghị nên đặt điều hành kinh tế gắn với an sinh xã hội.
Về các giải pháp, cần có giải pháp dài hơi, đồng thời cũng phải có giải pháp sát sườn cho Quý IV. Trong các giải pháp, giải pháp về visa rất quan trọng cho du lịch chưa đề cập đến, trong dự thảo cần đề cập thêm.
TS. Võ Trí Thành: Không hi sinh cái này để chọn cái kia
Theo TS. Võ Trí Thành, thúc đẩy tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô phải đi cùng với đảm bảo an sinh xã hội và lựa chọn của chúng ta là chúng ta lựa chọn cả 3 chứ không phải hi sinh cái này để chọn cái kia.
Tăng trưởng là động lực ta phải nhìn nhận lại cả 3 động lực tăng trưởng là: tiêu dùng, đầu tư và xuất nhập khẩu. Cuối năm nay và năm 2023 động lực cho xuất khẩu sẽ phải suy gỉam đáng kể. Do đó việc đa dạng hóa thị trường hay mở rộng thị trường sẽ là giải pháp quan trọng. Ví dụ như Hiệp định EVFTA thì thị trường chính của chúng ta vẫn là các thị trường cũ, do đó ngay trong EVFTA thì ta có thể mở rộng thêm thị trường và tham gia sâu hơn
Về đầu tư, hi vọng trong năm nay và năm sau, đầu tư công là khâu quyết định chiếm 1/3 tổng đầu tư xã hội cả năm, bây giờ mình đang giải ngân rất chậm thì đầu tư công sẽ là cú huých cho cả năm sau.
Riêng về tiêu dùng tôi không nghĩ mức tiêu dùng năm tới sẽ như năm nay vì người tiêu dùng thắt chặt kinh tế 1 phần và việc tiêu dùng kiểu "trả thù" cũng bớt dần, việc du lịch cũng giảm đi như vậy nền kinh tế sẽ phụ thuộc nhiều vào tiêu dùng từ du khách quốc tế. Do đó, các chính sách visa làm sao để thu hút được thêm du khách quốc tế là việc quan trọng.
Một động lực nữa thu hút đầu tư từ FDI, bên cạnh thu hút đầu tư tư nhân, thì bài học Euro Cham vừa nói rất đúng. Cho đến nay các nước châu Âu chưa phê chuẩn Hiệp định về bảo hộ đầu tư, nhưng rõ ràng việc thu hút FDI chất lượng chưa được như kỳ vọng.
Bên cạnh vấn đề hạ tầng, giải phóng mặt bằng, nhân lực, thể chế ưu đãi thì có 3 điều quan trọng trong thu hút FDI chất lượng đó là: môi trường đầu vào phải xanh, môi trường số phải tốt, môi trường sống cho các chuyên gia phải tốt thì mới hi vọng thu hút được FDI có chất lượng.
Về kinh tế vĩ mô, tôi cho rằng nên thận trọng với cung tiền. Tôi nghĩ rằng với tốc độ tăng tín dụng, giả sử năm nay là 14% thì năm sau cũng là 14% thì đây là con số không thấp. Vấn đề nợ xấu không trừ hẳn đi, vấn đề tăng vốn cho ngân hàng thương mại, tỉ lệ tín dụng trên GDP chưa kể áp lực ngắn hạn đối với tỉ giá, ta không muốn làm cho tỉ giá mất giá nhiều. Chưa kể những áp lực về lãi suất, lãi suất không thể tăng quá mức… Như vậy, cần nhanh chóng sửa đổi Nghị định 153 về phát hành trái phiếu cũng như trong những năm tới có thể chế tốt để phát hành trái phiếu là vấn đề quan trọng.
Cuối cùng là linh hoạt trong mức tín dụng của chúng ta vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, vào bất động sản đặc biệt là nhà ở công nhân, nhà ở xã hội… Ngân hàng Nhà nước cần linh hoạt hơn, ở đây không có nghĩa là tháng 3 năm nay so với tháng 3 năm sau cũng phải tăng 14%, có thể có tháng lên, tháng xuống cần theo chu kỳ sản xuất của các nhóm mặt hàng quan trọng là con số tổng thể cả năm.
Cuối cùng, về cách điều hành, chúng ta đã có tổ điều hành kinh tế vĩ mô tôi cho rằng cần thêm mục tiêu đảm bảo an sinh xã hội. Tôi cho rằng nên gọi tổ này là Tổ điều hành kinh tế vĩ mô và quản trị rủi ro và đảm bảo các cân đối lớn, để phạm vi hoạt động của Tổ điều hành này được tăng cường, mở rộng thêm.
TS. Nguyễn Đình Cung: Đề xuất thành lập tổ công tác độc lập gỡ vướng cho đầu tư công và đầu tư tư nhân
Phát biểu tại hội nghị, TS. Nguyễn Đình Cung, bày tỏ sự thận trọng: Chúng ta không nên đánh giá quá cao thành tích của năm nay. Bởi nếu phân tích kỹ mục tiêu tăng trưởng trong cả nhiệm kỳ, năm ngoái 2,5%, năm nay 7,5% thì qua 2 năm mới đạt 5,5%. Trong khi đó, mục tiêu của cả nhiệm kỳ chúng ta đặt ra là tăng trưởng 6,5-7%. Như vậy trong 3 năm còn lại, chúng ta phải nỗ lực rất lớn.
Theo TS. Nguyễn Đình Cung, áp lực lạm phát đang rất cao, chính sách tiền tệ sắp tới đây không thể hỗ trợ tăng trưởng, dư địa của chính sách tài khóa sẽ giảm, chi phí đầu vào tăng, ra không tăng được có nghĩa là lợi nhuận doanh nghiệp đang giảm sút, dòng tiền vào doanh nghiệp đang có vấn đề, sản xuất của chúng ta đang có vấn đề.
Động lực tăng trưởng sắp tới đây như chúng ta nói xuất khẩu sẽ giảm, FDI vào sẽ giảm, như thế giải ngân FDI sắp tới sẽ giảm. Đầu tư nhà nước có cải thiện đều nhưng không có những thay đổi, đầu tư vào tư nhân cũng như thế. Động lực cho thời gian sắp tới không nhiều tích cực, TS. Nguyễn Đình Cung cảnh báo những khó khăn tiềm ẩn.
Vì vậy, ông đề nghị chuẩn bị sẵn sàng các giải pháp để ứng phó. Trước hết, về đầu tư công, đề nghị Thủ tướng nên lập Tổ phân tích rõ những nguyên nhân. Tổ này độc lập, phân tích đánh giá, phân loại các nguyên nhân, đề xuất phương án xử lý.
Cũng tương tự như thế với đầu tư nhân, ở các địa phương có quá nhiều dự án lớn nhỏ đều bị ách tắc, đề nghị có Tổ phân loại nguyên nhân, có chỉ đạo sau đó tháo gỡ ách tắc đó cho dòng vốn đầu tư cả nhà nước và tư nhân. Một nguồn lực rất lớn nhưng chúng ta không sử dụng một cách hiệu quả.
Cần một cách tiếp cận động lực tăng trưởng mới – động lực tăng trưởng theo vùng kinh tế
Để duy trì và phục hồi động lực tăng trưởng, TS. Nguyễn Đình Cung cho rằng, nhìn trong tương lai dài hạn 5-7 năm tới, nếu chúng ta đặt mục tiêu tốc độ tăng trưởng cao toàn bộ nhiệm kỳ tăng trưởng 6,5-7%, thì cần một cách tiếp cận động lực tăng trưởng khác đó là động lực tăng trưởng theo vùng kinh tế.
Động lực tăng trưởng của miền Đông Nam bộ và khu vực sông Hồng chiếm 60% GDP và nếu chúng ta thúc đẩy 2 vùng này tháo gỡ điểm ngẽn của nó, làm nó phát triển tăng trưởng 9-10% thì cả nước sẽ tăng trưởng 7-8%. Cái này hoàn toàn nằm trong tầm tay.
Vì vậy phải có một hệ khuyến khích đầu tư mới để thu hút đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài vào những vùng đô thị phát triển, chứ không phải vào vùng sâu, vùng xa. Đó là cách chúng ta tạo động lực tăng trưởng, đồng thời đổi mới mô hình tăng trưởng.
Chỉ khi 2 đầu của đất nước đổi mới mô hình tăng trưởng thì cả Việt Nam mới đổi mới mô hình tăng trưởng còn nếu không chúng ta sẽ dậm chân tại chỗ, tái cơ cấu, tái cơ cấu và tái cơ cấu nói mãi vẫn không tái được.
PGS.TS Trần Hoàng Ngân: Chính phủ đã có quyết định rất sáng suốt
Theo chuyên gia Trần Hoàng Ngân: Cho đến ngày hôm nay chúng ta đã đi được 2/3 chặng đường của năm 2022 và với kết quả báo cáo vĩ mô và thông tin Bộ KH&ĐT vừa công bố, cho chúng ta yên tâm rằng các chỉ tiêu KTXH theo tinh thần Nghị quyết 32 của Quốc hội (15 chỉ tiêu) thì chúng ta hoàn toàn có khả năng đạt được, đặc biệt là mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Qua quý I, quý II, chúng ta tăng trưởng 7,7%, quý III năm nay tôi dự kiến chúng ta tăng trưởng 9%, như vậy cả năm chúng ta có thể đạt được tăng trưởng trên 7%.
Quan trọng hơn là GDP bình quân đầu người thì chúng ta phấn đấu đạt được 3900 USD/người để theo kế hoạch đến năm 2025 chúng ta sẽ đạt được khoảng 4700-5000 USD, để chúng ta vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đấy là đánh giá sơ bộ về kết quả chúng ta có được.
Nhìn lại cách đây 1 năm, chúng ta mới thấy rằng, để có kết quả này, Chính phủ đã có quyết định rất sáng suốt. Bởi thời điểm đó nếu chúng ta tiếp tục theo đuổi chính sách Zero COVID thì chúng ta không có thành quả như ngày hôm nay. Quyết định của chúng ta là ban hành Nghị quyết 128 để thích ứng an toàn, linh hoạt hiệu quả kiểm soát dịch COVID-19. Đó chính là quyết sách đem lại thành công, đem lại kết quả ngày hôm nay.
Nêu thêm một số vấn đề chúng ta cần quan tâm hiện nay, ông Trần Hoàng Ngân cho rằng, việc trước tiên cần quan tâm là kiểm soát lạm phát. Việt Nam có rất nhiều kinh nghiệm trong kiểm soát lạm phát.
Khi giá dầu lên vượt quá 140 USD/1 thùng, mà sự kiện này năm 2008 đã xảy ra rồi, lúc đó lạm phát của Việt Nam lên tới 23%. Nhưng năm nay khi giá dầu lên như vậy nhưng lạm phát đã kiểm soát được ngay, vì lý do gì? Chúng ta thực hiện cái việc giảm các loại thuế phí liên quan xăng dầu. Đây là một bài học rất quan trọng. Và chúng ta ổn định tỉ giá cho nên kiểm soát tốt được lạm phát tốt hơn so với thời điểm 2008 và 2011.
Thứ hai là sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ, trong đó tôi đánh giá rất cao sự điều hành chính sách tiền tệ, bởi điều hành chính sách tiền tệ ở thời điểm này vô cùng khó khăn.
Không phải riêng Việt Nam mà cả ngân hàng trung ương các nước cũng vậy. Bởi làm sao giải quyết hài hòa giữa kiểm soát lạm phát nhưng lại chống được suy thoái kinh tế luôn là bài toán khó.
Chính sách tiền tệ có 3 mục tiêu. Mục tiêu thứ nhất là kiểm soát lạm phát, ổn định tiền tệ chúng ta đã đạt được.
Mục tiêu thứ hai là giải quyết việc làm và thúc đẩy phát triển kinh tế thì chúng ta cũng đạt được.
Mục tiêu thứ ba bảo đảm an ninh tài chính quốc gia, đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng đến giờ phút này chúng ta cũng đạt được.
Tuy nhiên trong thời gian tới, chúng ta phải mạnh mẽ hơn trong vấn đề tái cơ cấu hệ thống ngân hàng để đem lại sự lành mạnh hơn để chúng ta điều hành chính sách tiền tệ một cách thuận lợi hơn. Từ đó giúp chúng ta mạnh mẽ để xóa bỏ room tín dụng trong thời gian tới. Hiện nay điều hành room của chúng ta là cần thiết, ông Trần Hoàng Ngân nhấn mạnh.
Chính sách tiền tệ trong giai đoạn hiện nay như thế nào, tôi nghĩ rằng chúng ta cần kiên định một chính sách tiền tệ thận trọng vì ở thời điểm này chúng ta yêu cầu nới lỏng thì sai phạm chúng ta yêu cầu thắt chặt thì không phù hợp với diễn biến phát triển kinh tế của Việt Nam chúng ta, mà một chính sách tiền tệ thận trọng, chặt chẽ , linh hoạt theo diễn biến thị trường.
Về chính sách tài khóa, chúng tôi cho rằng, trong thời gian vừa qua Bộ Tài chính đã có những cải cách quan trọng, từ đó giúp chúng ta tăng thu ngân sách trong điều kiện chúng ta phải hỗ trợ thuế phí cho phát triển kinh tế xã hội nhưng chúng ta tại tăng thu ngân sách rất cao (8 tháng thu tới trên 1,2 triệu tỷ, trong khi kế hoạch thu năm nay là 1,4 triệu tỷ) thì như vậy chúng ta đạt được mục tiêu.
Thu ngân sách năm nay rất lớn từ đó chúng ta có dư địa tiếp tục hỗ trợ an sinh xã hội, hỗ trợ nhân dân. Đó là việc tài khóa cần phải làm.
Tuy nhiên, vấn đề giải ngân vốn đầu tư công đến giờ phút này chúng ta mới giải ngân được 40%. Trong khi đây là động lực để thúc đẩy tăng trưởng, là động lực để huy động vốn xã hội, là công cụ giải quyết điểm nghẽn về hạ tầng. Chúng ta than phiền về hạ tầng, chi phí logictics nhưng vốn giải ngân đầu tư công chúng ta mới thực hiện được 40%. Năm nay vốn đầu tư công rất lớn trên 520 nghìn tỷ, chưa kể các khoản đầu tư khác.
Tôi nghĩ rằng, nếu Bộ Tài chính và các ngành chúng ta hỗ trợ hơn để giúp cho các doanh nghiệp xây dựng cơ bản giải quyết nợ tồn đọng thì doanh nghiệp sẽ có vốn mà tránh áp lực lên việc phải vay ngân hàng, thì bài toán vốn cũng được đặt ra. Về giải ngân gói tài khóa tiền tệ theo Nghị quyết 43 của Quốc hội thì chúng ta đang tiến hành, tôi đánh giá tốt.
Vấn đề thời gian tới tôi xin chia sẻ, trong năm 2023 và những năm tới thì năm 2023 là năm bản lề của kế hoạch KTXH 5 năm. Để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế của kế hoạch này từ 6,5-7% thì chúng ta mạnh dạn đặt ra mục tiêu tăng trưởng kinh tế của năm 2023 là trên 7%. Đây là vấn đề GDP của năm 2023.
Trong bối cảnh kinh tế thế giới đang trong quá nhiều yếu tố bất định, khó dự báo, tôi đồng tình thống nhất quan điểm rất cao của Thủ tướng Chính phủ mới vừa phát biểu: Chúng ta đi tìm sự ổn định trong điều kiện có nhiều yếu tố bất định. Đây là yếu tố rất quyết liệt.
Nhưng để làm được điều đó, việc quan trọng là nâng được thể trạng của nền kinh tế, nâng được sức khỏe của doanh nghiệp, nâng được sức khỏe của người dân. Có như vậy chúng ta mới tăng được sức chống chịu trước những biến động bất ổn như đại dịch COVID-19 vừa qua.
Để đạt được mục tiêu này, tôi nghĩ chúng ta tiếp tục triển khai 3 đột phá chiến lược như về thể chế, hạ tầng kinh tế xã hội, vấn đề nhân lực và bài toán về vốn. Bài toán về vốn thì vốn ngắn hạn ở ngân hàng thương mại, vốn trung dài hạn ở thị trường chứng khoán cho nên chúng ta sớm có thể chế hoàn chỉnh để thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển.
TS. Lê Xuân Nghĩa: Phải rất cảnh giác với tỷ giá hối đoái, chưa nên nghĩ tới việc nới lỏng chính sách tiền tệ
TS. Lê Xuân Nghĩa cho rằng: Chúng ta phải rất cảnh giác với tỷ giá hối đoái, khả năng còn tiếp tục mất giá rất đáng kể. Vì vậy, câu chuyện đặt ra là thời gian tới Ngân hàng Nhà nước có nên tăng lãi suất không và nếu không tăng thì đồng nghĩa chúng ta phải bán dự trữ ngoại hối để ổn định tỷ giá hối đoái.
TS. Lê Xuân Nghĩa cũng nêu một số vấn đề cần lưu ý trong điều hành doanh nghiệp thời gian tới nhất là liên quan tới điều hành lãi suất, thị trường trái phiếu doanh nghiệp. Bởi từ nay đến cuối năm doanh nghiệp còn khoảng 70 nghìn tỷ đáo hạn, dự báo trong năm tới cần 140 nghìn tỷ đáo hạn.
Đồng ý với Bộ trưởng Bộ KH&ĐT về quan điểm về xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ, nâng cao năng lực cạnh tranh và chống chịu cao hơn, TS. Lê Xuân Nghĩa cho rằng cần hết sức quan tâm đến phát triển hệ thống bán lẻ với các doanh nghiệp trong nước, bởi hiện nay về hệ thống bán lẻ người Việt chỉ còn sở hữu khoảng 30%, còn lại 70% là sở hữu nước ngoài.
Theo TS. Lê Xuân Nghĩa để kiềm chế lạm phát, nhiều ngân hàng Trung ương đã tăng lãi suất, nhưng không nhiều ngân hàng Trung ương có thể bán trái phiếu Chính phủ để thu tiền về. Điều này cho thấy lạm phát thế giới còn có thể cao, lãi suất thế giới còn có thể tăng thời gian tới. Vì vậy Việt Nam chưa nên nghĩ tới việc nới lỏng chính sách tiền tệ.
TS. Trần Du Lịch: Thách thức sắp tới rất lớn
Ông Trần Du Lịch, Thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tiền tệ Quốc gia: Thế giới đang trong thời kỳ bất ổn, chúng ta cũng không biết bất ổn kéo dài đến bao giờ và có bất ổn hơn không. Đối chiếu lại, từ đầu năm, tất cả hệ thống kinh tế vĩ mô của chúng ta đã chống chọi lại bất ổn của thế giới tương đối thành công, nhưng sắp tới liệu chống chịu như thế nào? Thách thức sắp tới rất lớn.
Tinh thần trong điều hành vĩ mô của chúng ta là "dĩ bất biến ứng vạn biến". Tôi nêu 3 ý kiến cụ thể như sau:
Thứ nhất, dự báo tăng trưởng của chúng ta năm này là 7,5%, tôi cho rằng chắc chắn sẽ thành công, nhưng cái khó là năm tới sẽ như thế nào khi dựa trên nền tăng trưởng cao của năm 2022? Những nền tảng ổn định mà chúng ta tạo được trong năm 2022 thì năm tới sẽ như thế nào? Có nhiều ý kiến cho rằng năm 2023 thế giới là "mùa Đông kinh tế 2023", những cái chúng ta tạo được trong tăng trưởng từ xuất khẩu, thu ngân sách… tất cả cái đó năm 2023 sẽ còn cỡ nào để phát triển.
Tôi cho rằng, bây giờ đã đến lúc chúng ta chuẩn bị kịch bản cho năm 2023 trên tất cả các lĩnh vực.
Thứ hai, nền kinh tế Việt Nam hiện nay cần vốn, nhưng cái cần hơn, cấp thiết hơn là hấp thụ vốn. Chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ phải phối hợp tốt.
Một vấn đề đặt ra hiện nay là có cần nới tín dụng hay không, trong đó có vốn cho thị trường bất động sản? Tôi nghĩ là không cần, vấn đề quan trọng là nguồn vốn ưu tiên cho lĩnh vực bất động sản nào, tín dụng bất động sản phải ưu tiên cho các dự án nhà ở xã hội, hạ tầng công nghiệp…
Thứ ba, phải phát triển cân đối thị trường chứng khoán, trái phiếu và cả thị trường tiền tệ, chứ không phải đẩy gánh nặng vốn trong trung và dài hạn cho chính sách tiền tệ.
GS. Hoàng Văn Cường: Việt Nam sẽ thể hiện rõ mình đang đi ngược với vòng xoáy của kinh tế thế giới
GS. Hoàng Văn Cường cho rằng: Đánh giá kết quả tăng trưởng trong 8 tháng vừa qua, tôi cho rằng đây là kết quả hết sức ngoạn mục. Chúng ta không nghĩ được rằng cuối năm 2021 và thời điểm này chúng ta có những kết quả này. Điều này cũng dự báo một điều có lẽ năm nay Việt Nam sẽ thể hiện rõ mình đang đi ngược với vòng xoáy của kinh tế thế giới.
Điều này không phải ngẫu nhiên mà đây là một kết quả tất nhiên của việc chúng ta điều hành kinh tế, kiên định trong ổn định kinh tế vĩ mô và thực hiện nhiều biện pháp điều hành linh hoạt, gần như "nghệ thuật" điều hành.
Đồng thời Chính phủ đã thể hiện sự lắng nghe, cầu thị đối với tất cả các cơ quan, tổ chức, nhà khoa học và đặc biệt là tạo được niềm tin với người dân, doanh nghiệp nên chúng ta thu hút FDI, các nhà đầu tư quốc tế, lượng đầu tư lớn.
Nhìn về bối cảnh của thời gian tới, tôi cho rằng áp lực về lạm phát của Việt Nam có lẽ chúng ta vượt qua ở quý II, từ nay đến cuối năm tôi cho rằng áp lực lạm phát sẽ không còn đe dọa nặng như giai đoạn trước.
Bởi lẽ các yếu tố vì chi phí đẩy là yếu tố chính của lạm phát, các yếu tố đầu vào đã tương đối kiểm soát được, chính sách điều hành tiền tệ vừa qua cũng "chắc tay". Nếu chúng ta tiếp tục duy trì chính sách chắc tay như thế thì chúng ta sẽ đưa tình hình lạm phát thấp.
Có lẽ rủi ro lớn nhất cuối năm nay và sang năm là nguy cơ về suy thoái kinh tế thế giới kéo theo tăng trưởng chậm của chúng ta, thậm chí nhiều khó khăn. Suy thoái kinh tế thế giới có thể nhìn thấy khá rõ và điều này đang thu hẹp thị trường thế giới, dẫn đến chúng ta là một nước xuất khẩu cũng bị bó hẹp thị trường.
Tôi cho rằng tác động này ảnh hưởng mạnh nhất đến khu vực FDI vì nhiều sản phẩm liên quan đến xuất khẩu còn khu vực trong nước, tác động này có lẽ thấp hơn vì phần lớn các sản phẩm của các doanh nghiệp trong nước mang tình thiết yếu và mức độ điều chỉnh không mạnh như sản phẩm của FDI.
Chính vì thế giai đoạn này có lẽ cần nới lỏng việc kiểm soát lạm phát và tăng cường hỗ trợ nhiều hơn cho các doanh nghiệp trong nước để tăng nguồn lực cho các doanh nghiệp này phục hồi để lấy lại đà phát triển, tạo ra vị thế, chỗ đứng để nếu như nền kinh tế thế giới có đi vào lạm phát, khủng hoảng thì chúng ta cũng giữ được thị trường trong nước.
Việc hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước hiện nay, tôi cũng đồng tình với ý kiến của anh Phước, có lẽ chúng ta phải dựa vào nguồn lực chính là cung cấp nguồn vốn của các doanh nghiệp hiện nay đang rất khó khăn.
Trong nguồn vốn, trước nay chúng ta dựa vào thị trường về tín dụng, trái phiếu, những năm gần đây, cụ thể là năm 2021, kinh tế tăng trưởng 2,58%, tốc độ tăng trưởng tín dụng gần 4%, thị trường hỗ trợ khá tốt cho doanh nghiệp nhưng sang năm 2022 thì gần như không còn hỗ trợ tốt cho doanh nghiệp nữa.
Chúng tôi kiên định với ý kiến trong Hội nghị tháng 7 là thực hiện đúng chính sách điều hành tiền tệ linh hoạt nhưng không phải thắt chặt. Chúng ta cần bổ sung các công cụ để kiểm soát tăng trưởng tín dụng, cần phải mở rộng thêm 2 yếu tố để kiểm soát tăng trưởng.
Thứ nhất, những ngân hàng có mức lãi suất cho vay bình quân thấp hơn mức bình quân chung thì tốc độ tăng trưởng phải cao hơn ngân hàng khác. Những ngân hàng duy trì được khoản chênh lệch giữa lãi suất huy động và lãi suất vay thấp thì các ngân hàng đấy cũng sẽ được tăng trưởng tín dụng cao.
Nếu chúng ta sử dụng những chỉ tiêu này thì sẽ biết được các ngân hàng thực sự quản trị tốt, có mức hỗ trợ doanh nghiệp nhiều hơn, không xảy ra tình trạng các ngân hàng chạy đua để tăng lãi suất. Tất nhiên làm việc này vô cùng khó khăn đòi hỏi phải đầu tư nguồn lực cho ngân hàng nhà trước trong việc kiểm soát hệ thống ngân hàng thông qua hệ thống về số hóa.
Tôi xin đề nghị, có lẽ từ nay đến cuối năm, áp lực về lạm phát không phải lớn, nhưng lớn nhất có lẽ là áp lực về kiểm soát tỷ giá. Tôi cũng đồng tình với ý kiến của anh Phước, chúng ta không nên phá vỡ tỷ giá đồng tiền. Như vậy, chúng ta phải kiên định giữ tỷ giá nhưng không có nghĩa là cứng nhắc mà phải linh hoạt với thị trường. Nếu chúng ta không ổn định được tỷ giá, nguy cơ dự trữ ngoại tệ của chúng ta chuyển thành dự trữ của cá nhân doanh nghiệp thì khi đó chúng ta sẽ mất khả năng chủ động về nguồn ngoại tệ.
Điểm cuối cùng, về tăng đầu tư công và đầu tư doanh nghiệp. Hiện nay, tỷ lệ giải ngân đầu tư công rất thấp. Chỉ đạo của Chính phủ đã rất quyết liệt. Có lẽ vướng nhất của chúng ta là e ngại của các nhà quản lý địa phương, pháp luật chưa dồng bộ, còn những điểm còn chồng chéo, không xử lý được.
Chính phủ cần mạnh dạn đề nghị Quốc hội cho phép cơ chế lựa chọn quy định pháp luật nào phù hợp nhất. Nếu như các điều khoản chồng chéo thì có thể lựa chọn một quy định phù hợp nhất để xử lý các vướng mắc về đầu tư công.
Về tháo gỡ khó khăn cho đầu tư tư nhân, rất nhiều hoạt động đầu tư tư nhân cần tháo gỡ như hệ thống khuyến khích phát triển kinh tế xanh, điện gió hay vấn đề đầu tư cho phát triển hệ thống bất động sản không đáp ứng điều kiện pháp lý sẽ tác động đến tăng trưởng kinh tế…
Ông Trương Văn Phước: Chắc chắn chúng ta sẽ đạt mục tiêu tăng trưởng
Ông Trương Văn Phước đưa ra 3 vấn đề. Vấn đề thứ nhất là kinh nghiệm quốc tế cũng như cách thức để ổn định kinh tế vĩ mô. Vấn đề thứ hai cụ thể đi vào cái rất "nóng bỏng" hiện nay là cung ứng tiền của Ngân hàng Nhà nước qua hạn mức tín dụng. Vấn đề thứ ba là tài khóa và chính sách tiền tệ, các mục tiêu.
Trước hết về ổn định kinh tế vĩ mô, rất nhiều số liệu minh họa rồi, có thể nói là lạm phát toàn cầu tăng lên, tuy là đang được cải thiện, ở 1 số nước tăng trưởng giảm thấp. Ở Việt Nam của chúng ta có thể nói là bức tranh ngược lại.
Chưa có con số cụ thể đến 31/12, nhưng chắc là chúng ta có thể tin tưởng rằng tăng trưởng của Việt Nam có thể trên 6,5% thậm chí 7%; lạm phát có thể kiểm soát được.
Kinh nghiệm của quốc tế là họ dùng rất nhiều các chính sách, một chính sách ngắn hạn trong chính sách tiền tệ là tăng lãi suất. Quan sát tăng lãi suất, đằng sau tăng lãi suất là gì là điều Việt Nam đang cần.
Lạm phát của Việt Nam được kiểm soát ở mức 3,6% so với đầu năm bắt nguồn từ hai kinh nghiệm chúng ta đã quản lý giá rất tốt bên cạnh việc quản lý lãi suất.
Có rất nhiều ý kiến xung quanh câu chuyện này, chắc chắn là ngày 21/9 này Mỹ tiếp tục tăng lãi suất. Việc tăng lãi suất suy cho cùng phục vụ cho việc tăng tỉ giá. Tôi có ý kiến riêng như này Việt Nam cần tiếp tục kiên định sự ổn định của tỉ giá.
Nếu không cho đồng Việt Nam tăng giá thì thôi chứ không để cho đồng Việt Nam giảm giá.
Kiềm chế lạm phát chúng ta đạt được như ngày hôm nay có sự đóng góp rất thầm lặng của chính sách tỉ giá của Ngân hàng Nhà nước, cùng với ổn định tỉ giá ngăn ngừa sự lan tỏa của lạm phát trên thế giới tới Việt Nam.
Thứ hai về cung ứng tiền và chính sách tiền tệ. Nói gì thì nói các quốc gia đều phải sử dụng chính sách tiền tệ trong tăng lãi suất và cung ứng tiền để kiểm soát lạm phát.
Ở Việt Nam chúng ta cung ứng tiền thể hiện qua room tín dụng, là kênh gần chủ chủ yếu cung ứng vốn cho nền kinh tế. Vừa rồi việc Ngân hàng Nhà nước thông báo bổ sung tăng trưởng tín dụng. Tôi cho là rất thích hợp.
Chỉ có một vấn đề là gì, chúng ta cần theo dõi chặt chẽ để có lộ trình trong tương lai chúng ta bỏ room tín dụng, một vài năm thì duy trì room tín dụng rất quan trọng.
Cần tạo ra thanh khoản của thị trường thông qua nhiệm vụ bơm rút tiền thông qua buôn bán ngoại tệ cũng như các công cụ của thị trưởng mở để tạo mặt bằng lãi suất ổn định.
Vấn đề cuối cùng là sự phối hợp về chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ. Không chỉ ở Việt Nam mà ở bất kỳ quốc gia nào sự xung đột của chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ gần như rất là phổ biến.
Cấu trúc tài chính của thị trường Việt Nam là nguyên nhân chính tạo sự xung đột ngày càng gay gắt hơn. Có thể nói chính sách tiền tệ là định hướng của dòng chảy tín dụng thời gian vừa qua, cũng đã giúp cho yếu tố lạm phát thấp xuống.
Thời gian tới, chính sách tiền tệ cần phải định hướng dòng chảy tín dụng qua các hệ số rủi ro. Việc xác định room tín dụng cho các ngân hàng cần dựa vào cơ cấu tín dụng và các hệ số rủi ro. Nếu anh cho vay với các ngành nghề rủi ro nhiều thì hệ số rủi ro cao.
Đây là 1 cách hỗ trợ cho chính sách tài khóa một cách gián tiếp, vì nếu như dòng vốn đi vào nền kinh tế nếu làm cho lạm phát thấp xuống, làm cho nguồn thu tăng lên.
Vê chính sách tài khóa, thị trường vốn hiện nay vẫn còn hạn chế, nhất là thị trường trái phiếu.
Tôi đề nghị chúng ta nên thí điểm cơ chế trái phiếu gắn với tài sản đảm bảo. Đây là cái mà hiện nay, đặc biệt là Mỹ, châu Âu đang phát triển rất nhiều, tránh tình trạng trái phiếu phát hành ra không có tài sản đảm bảo gây nên rủi ro khi hoàn trả.
Có thể nói, một thị trường không chặt quá, không lỏng quá, không cầu toàn làm sao để giải tỏa bớt áp lực lên thị trường tiền tệ nếu không thì dòng tiền mà từ Ngân hàng Nhà nước đưa ra qua chính sách tiền tệ ảnh hưởng đến tăng trưởng, đây có thể nói vòng luẩn quẩn trong xung đột chính sách.
Ông Ramachandran AS: Việt Nam là thị trường có tốc độ tăng trưởng GDP cao lạm phát thấp
Đại diện Hiệp hội Thương mại Hoa Kỳ (AMCHAM) - ông Ramachandran AS, Tổng Giám đốc Ngân hàng Citibank Việt Nam chúc mừng Chính phủ Việt Nam đã được thăng hạng đánh giá Moodys. Việc này sẽ giúp Việt Nam thu nhiều vốn đầu tư trực tiếp hơn từ nước ngoài, tin tưởng của các nhà đầu tư. Chúng tôi tin tưởng vào định hướng của Việt Nam.
Việt Nam cũng cho chúng tôi thấy Việt Nam là thị trường có tốc độ tăng trưởng GDP cao lạm phát thấp. Chúng tôi đánh giá rất cao hành động của Chính phủ giải quyết những thách thức của nền kinh tế toàn cầu. Chính phủ đã giải quyết được rất nhiều thách thức của nền kinh tế toàn cầu và thách thức trong giai đoạn đại dịch, cũng như việc điều chỉnh nhanh chóng giá xăng dầu, thuế, phí, để kiềm chế lạm phát. Bây giờ chúng ta có những hành động mạnh mẽ hơn
Đẩy nhanh tốc độ phục hồi triển vọng của Việt Nam rất tốt trong thời gian tới, AMCHAM muốn hợp tác với Chính phủ Việt Nam để thu hút thêm đầu tư, thúc đẩy đổi mới sáng tạo tại Việt Nam. Chúng tôi cũng thấy ngành tài chính, ngân hàng của Việt Nam phải đổi mới sự tham gia của khu vực tư nhân rất là quan trọng trong việc chuyển dần sang năng lượng sạch, xanh, cần có cơ chế cho năng lượng tái tạo phù hợp với thị trường. Đặc biệt Ngài John Kerry Đặc phái viên của chúng tôi về đổi khí hậu tuần trước đã có mặt tại đây và đã nói chúng ta cần phải đưa ngành tài chính của khu vực tư nhân vào trong các cuộc thảo luận chuyển đổi sang năng lượng sạch, xạnh. Các công ty của chúng tôi muốn tham gia vào quá trình chuyển đổi này của Việt Nam.
Chúng ta cần phải đưa ra những chính sách về đổi mới về tài chính mạnh mẽ hơn nữa thúc đẩy thị trường vốn của Việt Nam. Chúng tôi khuyến khích sự đổi mới trong bảo hiểm, chúng tôi mong có những quy định để ngành bảo hiểm tham gia nhiều hơn nữa. NHNN Việt Nam có những đề xuất về rà soát lại luật liên quan đến thể chế tín dụng, các tổ chức tín dụng.
Chúng tôi cũng đã đóng góp ý kiến liên quan đến dự thảo giao dịch điện tử. Tuy nhiên chúng tôi cũng mong mong muốn các ý kiến của doanh nghiệp sẽ được lắng nghe nhiều hơn nữa.
Để bảo đảm ngành chế biến, ngành chế tạo của Việt Nam phát triển, chúng ta phải đổi mới trong giáo dục, có chính sách về chuỗi cung, đầu tư vào logistics, năng lượng tái tạo, công nghệ cao.
"Chúng ta phải giữ vững bình tĩnh, đánh giá đúng nội lực để tự tin, chủ động, không lơ là, chủ quan, trong điều hành thì chuyển trạng thái không giật cục, không nới lỏng quá cũng không siết chặt; những gì được thực hiện hiệu quả, được thực tế chứng minh là đúng thì tiếp tục thực hiện, kiên định các vấn đề có tính nguyên tắc nhưng linh hoạt trong các vấn đề cụ thể",
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính