Theo đó, Luật sư Quách Thành Lực, Công ty Luật Pháp Trị - Đoàn Luật sư TP Hà Nội cho rằng khi là một chủ doanh nghiệp, việc nhận được đề nghị xuất giúp hoá đơn, ký hộ cái hợp đồng để một người thân quen, đối tác làm ăn thực hiện việc chứng minh nhu cầu tài chính để vay vốn ngân hàng là khá thường gặp.
Thông thường vì cả nể, vì sự tương trợ nhau trong hoạt động kinh doanh rất nhiều chủ doanh nghiệp đặc biệt là các chủ doanh nghiệp mới thành lập sẽ “tặc lưỡi” ký giúp hợp đồng, xuất hoá đơn, lập tài khoản để nhận giải ngân.
Quy trình vay vốn ngân hàng của doanh nghiệp nhờ ký hộ hợp đồng, xuất giúp hoá đơn sẽ gồm các bước: i) Ký hợp đồng mua bán hàng hoá, kèm hoá đơn; ii) Để thanh toán tiền mua hàng hoá theo hợp đồng thì sẽ vay vốn ngân hàng; iii) Ngân hàng xét duyệt hồ sơ vay vốn có Hợp đồng, hoá đơn mua bán cho vay và giải ngân vào tài khoản công ty bán hàng; iv) Khi tiền vào tài khoản thì người nhờ sẽ rút ra sử dụng.
Theo đó, Luật sư Quách Thành Lực cho rằng, việc người nhờ rút tiền ra sử dụng sau đó nếu họ có thể hoàn trả cả gốc và lãi cho ngân hàng thì bạn nhiều khả năng không gặp hậu quả về mặt hình sự. Tuy nhiên nếu người này khi đến hạn không trả được nợ cho ngân hàng thì ngân hàng sẽ tiến hành các hoạt động nghiệp vụ để rà soát lại hồ sơ vay.
Khi ngân hàng phát hiện ra hồ sơ vay có sự giả mạo về hợp đồng, hoá đơn cùng với việc người vay không trả được nợ thì đơn vị này sẽ chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra để xác định dấu hiệu tội phạm.
Trong bối cảnh pháp lý như trường hợp nói trên, Luật sư Quách Thành Lực nhận định với nhân viên ngân hàng sẽ bị đề nghị xem xét xử lý về Tội vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng được quy định tại Điều 206 Bộ luật hình sự.
Với người vay sẽ bị đề nghị xem xét xử lý về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại điều 174 Bộ luật hình sự hoặc tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điều 175 Bộ luật hình sự tuỳ thuộc vào mục đích chiếm đoạt của người vay có trước hay có sau khi Ngân hàng giải ngân.
Luật sư Quách Thành Lực cho rằng thông thường, chủ các doanh nghiệp nhỏ sẽ nghĩ rằng “ai sai người đó chịu, ai vay thì người đó phải trả, tôi không bị sao cả”.
“Đây cũng thường là suy nghĩ của chủ doanh nghiệp ký hộ hợp đồng, xuất giúp hoá đơn. Tuy nhiên, đây là suy nghĩ ngụy biện để trốn tránh trách nhiệm chứ hoàn toàn không phải suy nghĩ dựa trên lý trí, phân tích pháp lý về vai trò của người giúp sức cho hành vi phạm tội”, Luật sư Quách Thành Lực nhận định.
Từ những phân tích nêu trên, Luật sư Quách Thành Lực cho rằng các doanh nghiệp cần nhận thức rõ thức áp dụng pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng hiện nay thống nhất rằng: Hành vi làm hợp đồng và hóa đơn giá trị gia tăng khống là hành vi "tạo ra điều kiện vật chất" cho việc vay được tiền. Hành vi này có dấu hiệu đồng phạm theo quy định tại Điều 17 BLHS năm 2015. (Mục 5, phần I Văn bản 2160/VKSTC-V14 của VKS Tối cao).
Theo Luật sư Quách Thành Lực, với nhận thức như trên, cơ quan cảnh sát điều tra sẽ tiến hành triệu tập lấy lời khai của người đứng tên doanh nghiệp ký hộ hợp đồng, xuất hộ dóa đơn để làm sáng tỏ vai trò, giá trị giúp sức, ý thức của chủ doanh nghiệp trong việc có hiểu biết, tiếp nhận ý chí của người phạm tội về việc vay tiền để chiếm đoạt tài sản của ngân hàng hay không.
“Chủ doanh nghiệp sẽ là đồng phạm: khi chứng minh được mặc dù biết người vay sẽ sử dụng hợp đồng và hóa đơn giá trị gia tăng khống để lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác nhưng doanh nghiệp hỗ trợ vẫn làm hợp đồng và hóa đơn giá trị gia tăng khống để vay. (Mục 5, phần I Văn bản 2160/VKSTC-V14 của VKS Tối cao)”, Luật sư Quách Thành Lực cho biết.
Trong trường hợp như trên, theo ông Lực, hướng chứng minh hành vi tội phạm với vai trò giúp sức thường rất mạnh khi lập luận cơ quan tố tụng theo lối nhận định hai bên không có hoạt động kinh doanh thật, xuất hoá đơn giả, biết rõ dùng để vay vốn ngân hàng, nhận các lợi ích vật chất từ người lừa đảo để thực hiện hành vi gian dối.
Cũng theo Luật sư Quách Thành Lực, hậu quả pháp lý của người giúp sức trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nếu số tiền chiếm đoạt tài sản trị từ 500 triệu đồng trở lên thì bị có thể phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân.
Về trách nhiệm dân sự thì phải liên đới bồi thường số tiền lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại điều 587 Bộ luật dân sự năm 2015, hướng dẫn tại mục 1, phần I Công văn 212/TANDTC-PC ngày 13/09/2019.
Trong trường hợp nếu chứng minh được: Chủ doanh nghiệp chỉ nhận thức việc mình làm là tạo điều kiện cho thực hiện thủ tục vay tiền và họ không biết việc người vay sẽ sử dụng hợp đồng và hóa đơn giá trị gia tăng khống để gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản của Ngân hàng thì không xác định chủ doanh nghiệp đồng phạm với người vay. (Mục 5, phần I, Văn bản 2160/VKSTC-V14 của VKS Tối cao).
“Tuy nhiên chủ doanh nghiệp có thể thoát vai trò đồng phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tránh được hậu quả pháp lý hình sự, dân sự nặng nề nhưng vẫn có thể bị xem xét xử lý về tội phạm khác như tội vi phạm quy định về bảo quản, quản lý hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước theo điều 204 Bộ luật hình sự”, Luật sư Quách Thành Lực cho biết.