Công nghệ trong nghiên cứu khảo cổ

MT | 15:06 24/10/2025

Thuyền cổ được phát hiện ở Bắc Ninh cần sử dụng công nghệ hiện đại để xác minh.

Công nghệ trong nghiên cứu khảo cổ

Theo Cổng thông tin điện tử tỉnh Bắc Ninh, vào tháng 3, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã phối hợp với Viện Khảo cổ học thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam thực hiện khai quật khẩn cấp di tích hai thuyền cổ với diện tích khai quật là 300m2.

Theo nhận định ban đầu của các chuyên gia khảo cổ học, đây có thể là hai thuyền chở hàng hóa trên dòng sông Dâu, được đấu nối cố định với nhau. Đây là một phát hiện độc đáo, có cấu trúc lạ với kết cấu kiên cố chịu lực, chịu nước tốt.

Sau đó, các chuyên gia tiếp tục khai quật, nghiên cứu để xác định thuyền xuất hiện ở khoảng thời gian nào, giám định loại gỗ đóng thuyền và nghiên cứu các phương án di dời sau khi khai quật xong.

Mới đây, vào ngày 3/5, Phó giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Ninh cho biết sở có báo cáo kết quả bước đầu về giá trị, kết cấu và kỹ thuật đóng thuyền cổ được phát hiện gần thành Luy Lâu, thị xã Thuận Thành, Bắc Ninh vừa qua.

Theo báo cáo, trước đó, vào tháng 1, trong quá trình cải tạo đất để nuôi cá, một người dân đã phát hiện dấu tích của 2 thuyền cổ này. Vị trí xuất lộ thuyền cổ nằm trên dòng sông Dâu, là một nhánh của sông Thiên Đức - sông Đuống, chảy sát với bờ thành phía Tây của thành Luy Lâu. Vị trí phát hiện cách thành Luy Lâu khoảng 1km, cách chùa Dâu khoảng 600m về phía Đông Bắc; cách chùa Tổ (thờ Phật Mẫu Man Nương) khoảng 500m theo đường chim bay.

Sau khi khai quật, các chuyên gia xác định thuyền cổ gồm hai khối nguyên vẹn, cách nhau 2,3m và được đấu nối bằng tấm gỗ ở phần đầu. Hai khối dài trên 16m, rộng 1,95 - 2,2m và có lòng sâu nhất chừng 2,15m. Cùng với đó, phần đầu thuyền có một tấm ván hình chữ T dài gần 6,5m dùng để khóa chặt hai thân thuyền, trong khi phần đuôi có các cấu trúc được cho là nơi gắn bánh lái.

Thân thuyền được ghép từ 7-8 lớp ván, mỗi tấm rộng 22-34cm, dày trung bình 4,5cm. Hai thân thuyền cấu trúc tương tự, chia thành 6 khoang. Trong đó khoang đầu và khoang cuối phức tạp nhất, có các thanh đà ngang - dọc tạo độ vững chãi.

Đáng chú ý, báo cáo cho biết, kỹ thuật phức tạp nhất thể hiện ở phần đầu và đuôi thuyền, đó là vị trí nối giữa phần đáy độc mộc và ván bửng được khóa chặt với nhau, cố định bằng 4 trụ gỗ có kích thước tương tự nhau 5cm x 5cm. Đây là kỹ thuật lần đầu tiên thấy được trong kỹ thuật đóng tàu thuyền cổ ở Việt Nam và thế giới.

Căn cứ vào kỹ thuật cho thấy loại hình thuyền này thường có niên đại sớm và có thể được đóng tại Việt Nam, là sự phát triển tiếp nối của kỹ thuật đóng thuyền thời văn hóa Đông Sơn thông qua việc so sánh phần đáy của 2 thân với kết cấu độc mộc (được làm từ một thân cây) và kỹ thuật mộng ghép. Có ý kiến cho rằng, thuyền có niên đại trong khoảng từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 14 (thời Lý và thời Trần), và không thể muộn hơn thế kỷ 15 và có ảnh hưởng kỹ thuật từ phía nam lên.

Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Ninh, Viện Khảo cổ học kiến nghị tiếp tục mở rộng khai quật, nghiên cứu rộng ra toàn bộ không gian sông Dâu, nghiên cứu quy mô, cấu trúc của sông Dâu tại khu vực phát hiện di tích, giải mã vị trí và vai trò, quá trình biến đổi của sông Dâu trong lịch sử, đồng thời tổ chức hội thảo quy mô cấp quốc tế, có sự tham gia của các chuyên gia đến từ nhiều nước.

Đặc biệt, không thực hiện di dời thuyền khỏi hiện trường phát hiện, giữ nguyên trạng tại chỗ, thực hiện khoanh vùng bảo vệ, bảo tồn khẩn cấp di tích bằng giải pháp lấp kín lại một cách khoa học, bài bản nhằm tránh các tác động từ các điều kiện tự nhiên và xã hội ảnh hưởng trực tiếp đến di tích.

Hiện nay, các chuyên gia khảo cổ học vẫn chờ đợi kết quả phân tích Carbon-14 (C14) để xác định niên đại của 2 thuyền cổ phát lộ ở Bắc Ninh. Công nghệ Carbon-14 một phương pháp khoa học có thể xác định chính xác tuổi của các vật liệu hữu cơ có niên đại lên tới khoảng 60.000 năm.

Phương pháp này dựa trên thực tế là các sinh vật sống—như cây cối, thực vật, con người và động vật—hấp thụ cacbon-14 vào mô của chúng. Khi chúng chết đi, cacbon-14 bắt đầu chuyển hóa thành các nguyên tử khác theo thời gian. Các nhà khoa học có thể ước tính thời gian sinh vật đã chết bằng cách đếm số nguyên tử cacbon-14 còn lại.

Hiện nay, các phòng thí nghiệm hiện đại đã tự động hóa phần lớn quy trình đo C14. Cụ thể, hệ thống robot hoặc cánh tay cơ học thực hiện các công đoạn như sấy khô, nghiền, cân mẫu, đốt cháy tạo CO₂ và chuyển thành graphite, giúp loại bỏ sai sót do con người và rút ngắn thời gian chuẩn bị mẫu. Hay buồng phản ứng kín tự động, điều khiển bằng máy tính tự động điều chỉnh nhiệt độ, áp suất và dòng khí, đảm bảo mỗi mẫu được xử lý đồng nhất.

Tại Việt Nam, nhiều công nghệ cao đã được sử dụng trong nghiên cứu khảo cổ. Đơn cử như trí tuệ nhân tạo (AI) hỗ trợ các nhà khảo cổ giải thích dữ liệu chính xác hơn, đẩy nhanh quá trình khám phá và mở rộng hiểu biết về các nền văn minh quá khứ. AI có khả năng xử lý khối dữ liệu khổng lồ tích lũy qua nhiều thập kỷ và lưu trữ trong các kho dữ liệu, phục vụ nghiên cứu khảo cổ hiện tại lẫn tương lai.

Đặc biệt, công nghệ thị giác máy tính (computer vision) giúp phân tích hình ảnh để phát hiện hiện vật, lập bản đồ chính xác các địa điểm cổ đại, nhận diện các mô hình ẩn trong cảnh quan, thậm chí ghép nối những hiện vật vỡ vụn, qua đó tăng tốc khám phá và bảo tồn cả những chi tiết nhỏ nhất về lịch sử – văn hóa.

Việc ứng dụng AI trong khảo cổ đang phát triển mạnh mẽ, với các công cụ quét tự động, mô hình 3D và thực tế ảo giúp tạo bản sao số (digital twin) chân thực, mở rộng khả năng tiếp cận và nghiên cứu cho các nhà khoa học.


(0) Bình luận
Công nghệ trong nghiên cứu khảo cổ
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO