
17 năm trước, khi văn hóa trả tiền cho thông tin còn xa lạ ở Việt Nam, Ông Nguyễn Quang Thuân thành lập FiinGroup, bắt đầu gieo hạt giống đầu tiên cho giấc mơ xây dựng một hệ sinh thái dữ liệu độc lập, sâu sắc và có giá trị sử dụng cao. Từ nền tảng phân tích doanh nghiệp, trái phiếu, cổ phiếu, đến đơn vị xếp hạng tín nhiệm FiinRatings, ông và cộng sự đã và đang định vị FiinGroup là một cấu phần không thể thiếu trong quá trình chuyên nghiệp hóa thị trường tài chính Việt Nam.
Trong talkshow The Investors mùa 2, ông Nguyễn Quang Thuân không chỉ nói về câu chuyện kinh doanh mà còn thể hiện rõ một tâm thế kiến tạo, hướng tới một thị trường vốn có chiều sâu, đa lớp nhà đầu tư, cơ chế huy động vốn minh bạch và đặc biệt là tiệm cận thông lệ quốc tế.

Ngọc Nhi: FiinGroup được biết tới là công ty chuyên cung cấp giải pháp phân tích dữ liệu. Vậy vai trò cầu nối về thông tin và dữ liệu của
FiinGroup với thị trường là gì, thưa ông?
Ông Nguyễn Quang Thuân: Ngay từ khi thành lập FiinGroup cách đây 17 năm, chúng tôi đã luôn tin rằng dòng vốn đầu tư sẽ không thể dịch chuyển nếu không có dòng thông tin, đặc biệt là thông tin có chiều sâu, mang giá trị sử dụng cao và độc lập. Tư tưởng này vẫn luôn là kim chỉ nam xuyên suốt hành trình của chúng tôi.
Bắt đầu từ lĩnh vực dữ liệu thị trường chứng khoán, FiinGroup cung cấp thông tin cơ bản để phục vụ cho phân tích đầu tư từ cá nhân đến tổ chức. Dần dần, chúng tôi mở rộng sang phân tích rủi ro doanh nghiệp, chấm điểm các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hỗ trợ dòng vốn thương mại và xuất khẩu.
Với sự phát triển mạnh mẽ của xuất nhập khẩu, chúng tôi đã có cơ hội đồng hành cùng nhiều thương vụ lớn. Hầu hết các thương vụ đều được chúng tôi hỗ trợ phân tích. Hiện FiinGroup đang tiếp tục xây dựng một hệ sinh thái phân tích dữ liệu nhằm đóng góp cho sự phát triển của thị trường tài chính bao gồm cả thị trường chứng khoán và thị trường vốn nói chung.
Ngọc Nhi: Với vai trò cầu nối đó, ông có câu chuyện nào trong quá trình hợp tác giữa FiinGroup và một khách hàng tổ chức lớn khiến ông nhớ mãi, vì thể hiện rõ tác động của chất lượng dữ liệu tới quyết định đầu tư không?
Ông Quang Thuân: Có hai câu chuyện khiến tôi đặc biệt ấn tượng. Thứ nhất là với Nikkei cũng chính là cổ đông chiến lược của FiinGroup hiện tại. Trước khi đầu tư, họ từng là khách hàng của chúng tôi, họ đến với Việt Nam khi đó là một điểm đến nóng sau khi nước ta gia nhập WTO.
Làm việc với người Nhật, yếu tố cốt lõi không chỉ là thông tin mà dữ liệu phải có chiều sâu, có hệ thống và đầy đủ biểu đồ minh họa. Họ không chấp nhận những thông tin suông. Công ty con của họ là QUICK - được ví như Bloomberg của Nhật - đã sử dụng dữ liệu từ chúng tôi trong thời gian dài trước khi quyết định đầu tư.
Câu chuyện thứ hai là với S&P Global. Trước khi rót vốn vào FiinRatings, ban đầu họ cũng là khách hàng. Họ cần dữ liệu để xếp hạng tín nhiệm Việt Nam, đánh giá ngành và các doanh nghiệp lớn. Việc tiếp cận dữ liệu tại Việt Nam đối với tổ chức quốc tế là một thách thức do rào cản ngôn ngữ, tốc độ cập nhật và hệ thống phân tán. Chúng tôi đã giúp họ vượt qua điều đó. Tới đầu năm nay, S&P chính thức rót vốn đầu tư 43,4% cổ phần vào FiinRatings.
Điều đáng nói là cả hai đối tác đều đến với chúng tôi trước tiên trong vai trò khách hàng thay vì một nhà đầu tư tài chính tìm kiếm cơ hội sinh lợi. Điều đó thể hiện việc họ nhìn thấy giá trị thật sự từ dữ liệu, từ năng lực vận hành, rồi mới quyết định đồng hành dài hạn.

Ngọc Nhi: Ông có thể chia sẻ góc nhìn nào mà ông thấy là điểm khác biệt và thú vị của các tổ chức định chế với phần đông nhà đầu tư cá nhân trong nước về thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay không?
Ông Nguyễn Quang Thuân: Tôi cho rằng điểm khác biệt lớn nhất nằm ở tầm nhìn dài hạn. Nhà đầu tư tổ chức, nhất là các quỹ quốc tế thường đặt kỳ vọng 5–10 năm. Khi đánh giá cổ phiếu, họ không chỉ đơn thuần dựa vào chỉ số P/B hiện tại mà nhìn triển vọng lợi nhuận trong tương lai. Đây là cách nhìn mang tính chiến lược và rất khác với nhà đầu tư cá nhân trong nước, vốn thường bị ảnh hưởng bởi định giá ngắn hạn.
Ngoài ra, các định chế này còn tiến hành điều tra chuyên sâu. Ví dụ khi đầu tư vào ngành hàng tiêu dùng, họ sẵn sàng đóng giả khách hàng để đánh giá hệ thống phân phối. Tức là họ không chỉ dựa vào dữ liệu đại chúng hay báo chí, mà còn tự tạo dữ liệu, tự xác minh. Đó là điểm khiến họ luôn có lợi thế và lý do tại sao phần lớn nhà đầu tư tổ chức luôn có thành tích đầu tư vượt trội so với phần còn lại của thị trường.
Ngọc Nhi: Việc hợp tác với các tổ chức quốc tế như S&P Global giúp gì cho FiinGroup trong việc nâng cao chất lượng dịch vụ tại Việt Nam?
Ông Nguyễn Quang Thuân: Chúng tôi học được rất nhiều từ S&P. S&P đã tồn tại hơn 150 năm và họ hiểu rõ vai trò của dữ liệu với phát triển thị trường vốn. Hiện đây đã là một tập đoàn có vốn hóa gần bằng một nửa GDP Việt Nam trong khi doanh thu chỉ khoảng 15 tỷ USD. Điều này thể hiện việc họ hoạt động rất hiệu quả dựa trên mô hình thuê bao dữ liệu.
Riêng với mảng xếp hạng tín nhiệm - lĩnh vực họ trực tiếp đầu tư, yếu tố cốt lõi là niềm tin. Giá trị của FiinRatings không nằm ở mô hình hay công nghệ mà ở tính độc lập và chiều sâu của thông tin. Chúng tôi kỳ vọng FiinGroup và FiinRatings có thể đóng vai trò cung cấp dữ liệu minh bạch tại Việt Nam, đặc biệt là trong hành trình nâng hạng thị trường chứng khoán sắp tới.

Ngọc Nhi: Ông có thể chia sẻ về những khó khăn trong hành trình hoạt động của FiinGroup và làm thế nào để vượt qua?
Ông Nguyễn Quang Thuân: Khó khăn thì rất nhiều, nhưng tôi nhớ nhất là hai giai đoạn. Thứ nhất là giai đoạn khởi nghiệp khoảng 17 năm trước. Đội ngũ ban dầu đều là những người đang làm chuyên môn chuyển sang kinh doanh. Ba năm đầu không có doanh thu, chúng tôi đã làm mọi công việc như tư vấn, kiểm toán để nuôi công ty. Đến khoảng năm 2010, công ty gần như tạm dừng hoạt động một thời gian do quá khó khăn. Nhưng nhờ xoay mô hình sang cung cấp thông tin thuê bao, chúng tôi đã dần phục hồi.
Giai đoạn gần đây, khó khăn lại nằm ở mảng xếp hạng tín nhiệm. Doanh nghiệp Việt thích giải thưởng, nhưng “xếp hạng tín nhiệm” lại không phải giải thưởng, nó có thể “up” (lên) hoặc “down” (xuống) tùy theo tình trạng thực tế. Do đó không phải doanh nghiệp nào cũng sẵn sàng đón nhận việc này.
Vì vậy, chúng tôi phải kiên trì xây dựng niềm tin, không chỉ với doanh nghiệp mà cả với nhà đầu tư. Làm sao để họ xem xếp hạng tín nhiệm như một công cụ giúp định giá rủi ro, ra quyết định và xác định lãi suất cho vay hợp lý. Đó là hành trình dài nhưng chúng tôi tin đây là tương lai của thị trường vốn Việt Nam.

Ngọc Nhi: Minh bạch dữ liệu và thông tin là một yếu tố quan trọng để thu hút nhà đầu tư cũng như một trong những tiêu chí phụ để nâng hạng thị trường chứng khoán. Là đơn vị chuyên sâu về dữ liệu tài chính, FiinGroup đánh giá mức độ minh bạch của doanh nghiệp niêm yết Việt Nam hiện đang ở đâu và đâu là hạn chế còn tồn đọng?
Ông Nguyễn Quang Thuân: Nếu nhìn chung trên bình diện khu vực, mức độ minh bạch của các doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam không hề thua kém. Theo các khung chấm điểm của MSCI hay FTSE, Việt Nam được đánh giá khá tốt về dòng chảy thông tin (information flow), hoạt động công bố thông tin bằng tiếng Anh cũng đã được quy định cụ thể hơn.
Điều tôi cho rằng cần cải thiện là chất lượng thông tin công bố, đặc biệt là thông tin mang tính phân tích phục vụ ra quyết định đầu tư. Ví dụ, báo cáo tài chính nên tách riêng phần lợi nhuận đột biến thay vì gộp vào tổng lợi nhuận. Khi đó, nhà đầu tư sẽ có cái nhìn công bằng và thực chất hơn về tăng trưởng hoạt động cốt lõi, tránh những kỳ vọng không thực tế, dẫn đến hiện tượng cổ phiếu tăng trần rồi đổ đèo.
Ngoài ra, một số vấn đề về công bố thông tin giao dịch nội bộ cũng gây băn khoăn cho nhà đầu tư nước ngoài. Có tình trạng lãnh đạo doanh nghiệp đăng ký giao dịch nhưng sau đó không thực hiện, hoặc giải trình còn chung chung, thiếu rõ ràng.
Ngọc Nhi: Vậy theo ông, các cơ chế cải cách nào là cần thiết để thị trường chứng khoán Việt Nam đạt được tiêu chuẩn minh bạch của các thị trường phát triển?
Ông Nguyễn Quang Thuân: Về thể chế, tôi cho rằng chính sách hiện nay đã khá đầy đủ. Điều cần thúc đẩy thêm là ở khâu thực thi, đặc biệt là trong công bố thông tin cho nhà đầu tư quốc tế, giao dịch nội bộ cũng như sự tham gia của các tổ chức độc lập.
Chẳng hạn, hiện chỉ có khoảng dưới 20% số doanh nghiệp niêm yết được các công ty chứng khoán cung cấp báo cáo phân tích, tỷ lệ bao phủ tương đối thấp. Tức là thông tin về phần đông các doanh nghiệp còn lại nhà đầu tư cá nhân vẫn phải dựa nhiều vào tin đồn và “phím hàng”.
Ngoài ra, một vấn đề tôi vẫn thường chia sẻ là hoạt động của nhiều môi giới hiện đang vượt khỏi vai trò đơn thuần, mà phần nào có xu hướng trở thành quản lý quỹ. Đây là điểm cần được quản lý rõ ràng hơn để bảo vệ nhà đầu tư và phát triển thị trường đúng hướng.
Thay vào đó, tôi cho rằng cũng nên có cơ chế cấp phép quản lý tài sản cho những cá nhân có đủ năng lực, uy tín và điều kiện. Đồng thời, cần khuyến khích các tập đoàn toàn cầu tham gia thị trường Việt Nam. Khi có những tổ chức uy tín như vậy vào thị trường, các nhà đầu tư quốc tế sẽ có thêm niềm tin để tham gia.

Ngọc Nhi: Nhiều ý kiến cho rằng một trong những vai trò quan trọng của thị trường chứng khoán là kênh huy động vốn trung và dài hạn của doanh nghiệp niêm yết, nhưng vai trò này của thị trường chứng khoán Việt Nam còn thể hiện khá khiêm tốn. Ông có đồng ý với quan điểm này không?
Ông Nguyễn Quang Thuân: Tôi đồng ý một phần. Thị trường chứng khoán có hai vai trò là tạo thanh khoản và huy động vốn trung dài hạn. Về thanh khoản, Việt Nam hiện dẫn đầu ASEAN, có những phiên giao dịch hàng tỷ USD nhờ lực lượng nhà đầu tư cá nhân rất mạnh.
Tuy nhiên, vai trò huy động vốn còn hạn chế. Đỉnh điểm năm 2021, lượng vốn huy động khoảng 120.000 tỷ đồng; năm ngoái là khoảng 80.000 tỷ và năm nay ước tính khoảng 100.000 tỷ. So với kênh tín dụng gần 2 triệu tỷ hay trái phiếu doanh nghiệp khoảng 600.000–700.000 tỷ thì rõ ràng quy mô vốn từ kênh cổ phiếu còn nhỏ.
Đặc biệt, các doanh nghiệp phi tài chính vẫn chưa thể tận dụng thị trường cổ phiếu để huy động vốn. Một phần do thị trường đi ngang, định giá thấp khiến doanh nghiệp chưa muốn phát hành thêm.
Tôi kỳ vọng thời gian tới khi điều kiện thuận lợi hơn, chức năng huy động vốn của kênh cổ phiếu sẽ phát huy mạnh mẽ hơn. Khi đó, thị trường vốn Việt Nam sẽ hình thành thế “kiềng ba chân” gồm tín dụng ngân hàng, trái phiếu và cổ phiếu, từ đó hỗ trợ tăng trưởng kinh tế một cách cân bằng, vững chắc.
Ngọc Nhi: Gần đây mọi người nói rất nhiều về Tài chính xanh, thậm chí đề thi môn Tiếng Anh tốt nghiệp PTTH vừa rồi cũng có bài luận về vấn đề này. Tôi biết ông cũng hay nói về lĩnh vực tài chính bền vững này. Vậy ông đánh giá thế nào về tiềm năng và sự hấp dẫn của trái phiếu xanh thậm chí là cổ phiếu xanh tại Việt Nam?
Ông Nguyễn Quang Thuân: Tài chính xanh hay ESG đã được đề cập từ hàng chục năm nay, nhưng đặc biệt bùng nổ trong 5–7 năm gần đây. Dù có những giai đoạn chững lại nhưng xu hướng này là không thể đảo ngược.
Ở Việt Nam, chúng ta đã có những nghị quyết rất cụ thể đều nhấn mạnh thúc đẩy tài chính và tín dụng xanh, chính sách hỗ trợ 2% lãi suất cho các khoản vay xanh.
Cá nhân tôi rất tâm huyết với chủ đề này. Năm ngoái, chúng tôi xác nhận ba trái phiếu xanh đạt chuẩn quốc tế. Khi một doanh nghiệp có năng lực, tín nhiệm cao, lại phát hành trái phiếu xanh, thì giống như “một cô gái đã xinh còn được trang điểm”, họ sẽ trở nên rất hấp dẫn với các quỹ đầu tư theo chuẩn ESG.
Tôi mong muốn Việt Nam sớm xây dựng khung tiêu chí và dán nhãn “cổ phiếu xanh”. Khi cổ phiếu được xác nhận là xanh, nhà đầu tư đặc biệt là tổ chức sẽ dễ dàng lựa chọn, yên tâm hơn khi ra quyết định.

Host Ngọc Nhi: FiinGroup có kế hoạch gì mới trong việc cung cấp thêm tầng lớp dữ liệu chuyên sâu, hỗ trợ nhà đầu tư, đặc biệt khi dòng vốn đang đòi hỏi chất lượng minh bạch ngày càng cao?
Ông Nguyễn Quang Thuân: Chúng tôi xem việc này là một hành trình không có hồi kết. Từ nền tảng dữ liệu chứng khoán, chúng tôi mở rộng sang phân tích doanh nghiệp, nghiên cứu ngành, xếp hạng tín nhiệm… và vẫn đang tiếp tục tìm tòi các hướng mới.
Hiện chúng tôi đang nghiên cứu áp dụng cơ chế sandbox để chấm điểm tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, từ đó giúp ngân hàng có thể cấp vốn vay mà không cần tài sản bảo đảm, chỉ cần dựa trên dữ liệu và mô hình chấm điểm.
Ngoài ra, chúng tôi đang phát triển cơ sở dữ liệu ESG cho Việt Nam, bao gồm cả việc phục vụ giao dịch chứng chỉ carbon. Tuy nhiên, vấn đề nằm ở hạ tầng và tiêu chuẩn xung quanh, quy định thế nào là xanh, ai xác nhận, quy đổi ra sao... Chúng tôi cũng mong muốn hỗ trợ nhiều hơn cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, thực tế cho thấy nhiều doanh nghiệp bị lừa bởi công ty “ma” ở nước ngoài. Do đó, FiinGroup đã triển khai dịch vụ eKYC, kết nối với dữ liệu của đối tác như S&P để kiểm tra thông tin đối tác quốc tế.
Cuối cùng, chúng tôi mong muốn không chỉ phục vụ nhà đầu tư nước ngoài, mà còn hỗ trợ doanh nghiệp nội địa tiếp cận thông tin minh bạch, đánh giá rủi ro, tìm kiếm đối tác và mở rộng cơ hội thương mại.

Ngọc Nhi: Dựa trên góc nhìn của một tổ chức chuyên về dữ liệu, ông đánh giá thế nào về tiềm năng và thách thức của thị trường chứng khoán Việt Nam trong bối cảnh hiện nay, đặc biệt khi so sánh với các thị trường khác trong khu vực?
Ông Nguyễn Quang Thuân: Bản thân tôi đã đồng hành với thị trường chứng khoán Việt Nam ngót nghét 25 năm, từ phiên giao dịch đầu tiên. Trong đó, 17 năm tôi dành cho công việc phân tích dữ liệu để phục vụ các định chế tài chính và nhà đầu tư. Trải qua rất nhiều chu kỳ, tới nay tôi thường chia sẻ với khách hàng một thông điệp ngắn gọn: “Now or Never!” (Bây giờ hoặc không bao giờ).
Việt Nam có triển vọng tăng trưởng kinh tế cao và đặc biệt là sự ổn định vĩ mô vẫn đang được duy trì. Bên cạnh đó, câu chuyện nâng hạng thị trường là một yếu tố then chốt. Khi nhìn vào các quốc gia trong khu vực, Việt Nam hiện đang là một điểm thu hút lớn.
Lấy ví dụ Thái Lan, dòng vốn nước ngoài vẫn đang rút khỏi thị trường, dù định giá của họ thấp hơn Việt Nam. Một phần do ảnh hưởng của các yếu tố vĩ mô và căng thẳng thương mại. Trong khi đó, Việt Nam nếu thực hiện được nâng hạng và giữ được mức tăng trưởng GDP khoảng 8–9% đi kèm với ổn định vĩ mô sẽ trở thành một tâm điểm thu hút vốn toàn cầu. Cơ hội đến từ dòng vốn mới, minh bạch thông tin, chất lượng hàng hóa, định giá hấp dẫn và khả năng tiếp cận thị trường ngày càng mở rộng.
Ngọc Nhi: Như vậy là chúng ta đều công nhận thị trường có nhiều cơ hội, những tổ chức cũng đánh giá được tiềm năng của Việt Nam nhưng câu hỏi đặt ra là tại sao khối ngoại vẫn bán ròng liên tục gần 2 năm qua. Nguyên nhân sâu xa là gì?
Ông Nguyễn Quang Thuân: Về cơ bản đó là sự dịch chuyển dòng vốn toàn cầu trong bối cảnh lãi suất neo cao tại Mỹ. Tuy nhiên, gần đây xu hướng này bắt đầu thay đổi. Chúng tôi quan sát thấy không chỉ các quỹ truyền thống mà cả các nhà đầu tư nước ngoài thế hệ mới như các quỹ ETF, Mutual Fund đang quay trở lại.
Trước đây, các quỹ lớn thường không đầu tư trực tiếp mà thông qua các công ty quản lý quỹ chuyên nghiệp hoặc đầu tư vào các thương vụ lớn tại các doanh nghiệp hàng đầu. Song hiện tại, một số khách hàng của chúng tôi đã bắt đầu quan tâm đến các kênh đầu tư đa dạng hơn, không chỉ cổ phiếu mà còn trái phiếu doanh nghiệp, trái phiếu Chính phủ, các sản phẩm tiền tệ. Nếu thị trường trái phiếu minh bạch hơn, thị trường tiền tệ và trái phiếu Chính phủ được cải thiện, thì họ hoàn toàn có thể rót vốn mạnh hơn.

Ngọc Nhi: Vậy theo ông, đâu là nhóm ngành tại Việt Nam đang bị đánh giá là “mất cân đối” về cấu trúc tài chính khiến nhà đầu tư ngoại còn dè dặt?
Ông Nguyễn Quang Thuân: Đây là câu chuyện lớn, không chỉ liên quan đến thị trường chứng khoán mà là toàn bộ thị trường vốn Việt Nam. Mất cân đối tài chính chủ yếu xuất hiện ở các doanh nghiệp có đòn bẩy cao, khả năng thanh toán nợ yếu.
Các ngành từng mất cân đối nặng như bất động sản, năng lượng tái tạo hay một số ngân hàng yếu kém hiện tại đã phần nào được kiểm soát. Tuy nhiên, nhìn rộng hơn, ngành ngân hàng cũng đang chịu áp lực lớn. Mục tiêu tăng trưởng tín dụng năm nay là 16%, nhưng hệ số an toàn vốn bình quân của toàn ngành chỉ khoảng 12,6%, thậm chí có thể thấp hơn sau giai đoạn tăng trưởng mạnh vừa qua.
Thêm một vấn đề khác liên quan tới việc thị trường vốn Việt Nam cần được cải cách mạnh hơn đó là việc vốn từ ngân hàng phải đảm đương vai trò tài trợ cho các dự án hạ tầng lớn như cao tốc. Trong khi đó, kênh vốn phi ngân hàng không phát triển theo kịp, hệ lụy kéo theo có thể rất lớn trong vòng 5–7 năm tới.
Ngoài ra, ở các ngành phi ngân hàng như bất động sản, xi măng, năng lượng… cũng cho thấy sự mất cân đối tài chính nhất định. Nhiều dự án năng lượng tái tạo có dòng tiền ổn định nhưng đặc điểm là chu kỳ thu hồi vốn dài hạn có thể từ 13 đến 15 năm. Trong khi đó, vốn vay ngân hàng tối đa 7–10 năm, trái phiếu doanh nghiệp bình quân 3 năm. Tức là, doanh nghiệp sẽ liên tục phải “xoay vòng” nợ để có thể tài trợ cho dự án. Do đó, tôi cho rằng thị trường vốn cần phải phát triển đa dạng để tạo ra sự cân đối lành mạnh và bền vững cho hệ thống tài chính.

Ngọc Nhi: Nếu gợi mở một thông điệp nào đó với khối ngoại trong thời điểm hiện nay, ông sẽ chọn yếu tố nào để thuyết phục họ giữ niềm tin vào thị trường Việt Nam?
Ông Nguyễn Quang Thuân: Trong suốt vài năm qua, nhà đầu tư nước ngoài bán ròng miệt mài. Là đối tác cung cấp dữ liệu cho nhiều tổ chức quốc tế, chúng tôi vẫn thường xuyên tổ chức các hoạt động chia sẻ thông tin và giải thích diễn biến thị trường. Một điều khá thú vị là hiện nay thị trường rất hấp dẫn, nhưng khối ngoại lại chưa quay trở lại mạnh mẽ như họ từng làm vào giai đoạn 2006–2007, mặc dù định giá thấp hơn rất nhiều.
Tôi từng chia sẻ thẳng thắn với các lãnh đạo quản lý quỹ quốc tế rằng ngày xưa họ “FOMO” vào một cái ao nhỏ, vốn FII lúc đó chỉ khoảng trên 6 tỷ USD và thị trường cổ phiếu đã hút tới 2–3 tỷ USD. Con số đó tương đương với 20 - 30 tỷ USD bây giờ, nếu thị trường hiện tại thu hút được dòng tiền như vậy thì VN-Index thậm chí có thể lên 2.000 - 3.000 điểm. Vấn đề là phải có tầm nhìn dài hạn và sẵn sàng đón đầu làn sóng mới.
Trong bối cảnh Việt Nam đang tăng trưởng mạnh, nhiều ngành có thể bùng nổ. Nếu so với các thị trường khác trong khu vực thì Việt Nam hiện vẫn có định giá hấp dẫn hơn với tiềm năng tăng trưởng rất lớn.
Ngọc Nhi: Dưới góc độ của một nhà đầu tư cá nhân, ông nhận xét như thế nào về thị trường chứng khoán Việt Nam? Có câu chuyện nào thú vị hay những kỷ niệm đầu tư nào đáng nhớ?
Ông Nguyễn Quang Thuân: Với FiinGroup và FiinRatings, chúng tôi không đầu tư chứng khoán vì tuân thủ nguyên tắc hoạt động độc lập trong lĩnh vực xếp hạng tín nhiệm.
Còn về phía cá nhân, tôi có đầu tư và thực sự phải cảm ơn thị trường chứng khoán. Thời điểm khởi nghiệp năm 2007, tôi gần như không có vốn và đầu tư chứng khoán đã giúp tôi tích lũy được một chút vốn để thành lập FiinGroup. Tôi xuất thân là kiểm toán viên và chuyên viên phân tích, do đó trường phái đầu tư của tôi khá cơ bản và thận trọng, chủ yếu để gia tăng thu nhập và phân bổ tài sản hiệu quả.

Ngọc Nhi: Về đơn vị trực thuộc hệ sinh thái là FiinRatings, hiện đây là đơn vị xếp hạng tín nhiệm nổi bật nhất tại Việt Nam. Sau hơn 5 năm hoạt động, ông đánh giá mức độ tiếp nhận của thị trường ra sao?
Ông Nguyễn Quang Thuân: FiinRatings là đơn vị được Bộ Tài chính cấp phép thứ hai nhưng là đơn vị đầu tiên cung cấp dịch vụ một cách chính thức và liên tục. Sau hơn 5 năm hoạt động, chúng tôi đã xếp hạng gần 100 doanh nghiệp và ghi nhận nhiều trường hợp doanh nghiệp huy động được vốn nhờ vào hồ sơ tín nhiệm của mình. Riêng trong năm 2024, các doanh nghiệp được FiinRatings xếp hạng đã huy động hơn 100.000 tỷ đồng.
Một ví dụ nổi bật gần đây là thương vụ phát hành trái phiếu kỳ hạn 20 năm. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử thị trường Việt Nam có một doanh nghiệp phi tài chính vay được vốn dài như vậy. Việc xếp hạng tín nhiệm đã góp phần làm nên điều này, bên cạnh các nghiệp vụ bảo lãnh khác.
Tuy nhiên, ngành xếp hạng tín nhiệm mới ở giai đoạn đầu. Các quy định pháp lý đang dần siết chặt, như Luật Chứng khoán sửa đổi 2024 sẽ yêu cầu bắt buộc xếp hạng tín nhiệm với phát hành riêng lẻ cho nhà đầu tư cá nhân từ năm 2026. Tôi mong các doanh nghiệp sớm chủ động minh bạch, đặc biệt nếu muốn huy động vốn kỳ hạn dài phù hợp với chu kỳ đầu tư.
Chúng tôi thuyết phục cả cổ đông lẫn đối tác chiến lược như S&P giữ vững tầm nhìn dài hạn, bởi vì Việt Nam một khi xác định thay đổi thì sẽ thay đổi rất nhanh. Tôi kỳ vọng xếp hạng tín nhiệm sẽ sớm trở thành thông lệ, hỗ trợ thị trường vốn phát triển bền vững.
Ngọc Nhi: Ông có thể chia sẻ về những lợi ích cụ thể mà một doanh nghiệp có xếp hạng tín nhiệm tốt nhận được?
Ông Nguyễn Quang Thuân: Về bản chất, xếp hạng tín nhiệm là một đánh giá độc lập về năng lực tài chính và khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Khi bạn vay tiền, ngoài việc minh bạch thông tin, cần có bên thứ ba xác nhận rằng bạn đáng tin. Đơn giản như khi nộp đơn xin học bổng hay du học, cần có điểm SAT hay IELTS được chấp nhận rộng rãi.
Nghịch lý là nhiều doanh nghiệp muốn phát hành trái phiếu nhưng lại ngại minh bạch. Trong khi ngân hàng yêu cầu tài sản đảm bảo và giám sát chặt chẽ, thì thị trường vốn, đặc biệt là kênh trái phiếu lại đòi hỏi niềm tin dựa trên thông tin minh bạch. Mà minh bạch không có nghĩa là phô ra hết nội tại của doanh nghiệp mà là cung cấp đúng những gì thị trường cần như hồ sơ phát hành, báo cáo tài chính và bản đánh giá xếp hạng tín nhiệm.
Bởi lẽ báo cáo tài chính dù được kiểm toán chỉ phản ánh quá khứ tại một thời điểm xác định, trong khi xếp hạng tín nhiệm đánh giá khả năng trả nợ trong tương lai. Khi doanh nghiệp nghiêm túc và muốn huy động vốn dài hạn với chi phí hợp lý thì xếp hạng tín nhiệm là công cụ rất hữu ích.
Hiện nhiều định chế tài chính, như bảo hiểm và một số ngân hàng đã bắt đầu sử dụng xếp hạng tín nhiệm trong đánh giá tín dụng. Lợi ích lớn nhất là giảm chi phí vốn, đa dạng hóa nguồn vốn, tiếp cận nhà đầu tư tổ chức và kéo dài kỳ hạn nợ. Tất cả đều gắn liền với mức độ minh bạch của doanh nghiệp.
Ngọc Nhi: Lợi ích là vậy song liệu có phải vẫn còn một khoảng cách nhất định giữa “xếp hạng tín nhiệm” và “niềm tin” của nhà đầu tư đối với doanh nghiệp trong nước?
Ông Nguyễn Quang Thuân: Đúng vậy, khoảng cách tồn tại không chỉ giữa xếp hạng tín nhiệm và niềm tin thị trường đối với doanh nghiệp, mà còn là niềm tin của thị trường và chính các đơn vị xếp hạng như FiinRatings.
Chúng tôi đã nỗ lực rất nhiều, nhưng có lúc cũng tự hỏi liệu thị trường có sử dụng kết quả này không? Giá trị của xếp hạng tín nhiệm là vô hình và sẽ đòi hỏi thời gian để được thị trường công nhận rộng rãi.

Ngọc Nhi: FiinGroup định vị mình là “trung tâm phân tích dữ liệu tài chính độc lập”. Vậy trong 5 năm tới, ông mong muốn doanh nghiệp mình đóng vai trò gì cho thị trường vốn Việt Nam?
Ông Nguyễn Quang Thuân: Chúng tôi vẫn đang kiên định với sứ mệnh soi sáng thị trường. Bên cạnh mục tiêu kinh doanh, tôi và cả đội ngũ gần 200 người của FiinGroup luôn mong muốn đóng góp cho sự phát triển bền vững của thị trường vốn và ngành tài chính Việt Nam.
Ngoài việc cung cấp thông tin chuyên sâu, chúng tôi còn tích cực hỗ trợ các sáng kiến nâng hạng thị trường. FiinGroup từng mời MSCI, IFC thuộc World Bank và cả Sở Giao dịch Chứng khoán Pakistan – quốc gia vừa được nâng hạng khi đó đến Việt Nam để hội thảo cùng hơn 300 đại biểu.
Chúng tôi kỳ vọng đóng góp vào việc cải thiện xếp hạng tín nhiệm quốc gia. Đây là rào cản lớn khiến Chính phủ và doanh nghiệp Việt Nam phải trả lãi suất cao hơn khi huy động vốn quốc tế, trong khi các nước như Thái Lan, Malaysia hay Philippines có mức xếp hạng tốt hơn.
Nếu trong những năm tới, Việt Nam đồng thời nâng được xếp hạng quốc gia, được FTSE và MSCI công nhận là thị trường mới nổi đồng thời có một hệ thống trái phiếu xanh cùng cổ phiếu xanh minh bạch theo chuẩn quốc tế, đó sẽ là viễn cảnh rất đáng mơ ước. Nếu FiinGroup có thể đóng góp một phần nhỏ vào hành trình này, bản thân tôi cùng các cộng sự trong toàn hệ sinh thái sẽ vô cùng tự hào.
Ngọc Nhi: Cảm ơn ông về những chia sẻ này!
Bài: Thái Hòa
Ảnh: Ngọc Đẹp
Thiết kế: Hải An