Theo Railway Technology, năm 2008, California bỏ phiếu đồng ý cho khoản ủy quyền trái phiếu trị giá 9 tỷ USD để xây dựng tuyến đường sắt cao tốc nối Los Angeles và San Francisco, với thời gian di chuyển dự kiến chỉ 2 giờ 40 phút. Tuy nhiên, dự án bị trì hoãn do khó khăn trong huy động vốn và thu hồi đất, đến năm 2015 mới chính thức khởi công.
Tuyến đường dài khoảng 795 km, tốc độ thiết kế tối đa 354 km/h. Theo Reuters, ngay từ giai đoạn đầu, dự án đã thu hút nhiều quốc gia muốn tham gia. Các nhà sản xuất tàu từ Nhật, Đức, Hàn Quốc và Pháp được kỳ vọng cạnh tranh hợp đồng chế tạo, nhưng Trung Quốc nhanh chóng nổi bật nhờ mức giá thấp và các gói tài chính hấp dẫn. Chi phí xây dựng của Trung Quốc chỉ khoảng 20 triệu USD/km, chỉ bằng một phần ba so với công nghệ châu Âu.
Do thiếu kinh nghiệm về công nghệ đường sắt cao tốc, California buộc phải tìm đến các công ty nước ngoài để chế tạo tàu, nhưng vẫn cam kết sản xuất trong nước và sử dụng lao động Mỹ. Siemens (Đức) mở rộng nhà máy tại Sacramento để phục vụ dự án, trong khi Nhật Bản và Alstom (Pháp) cũng bày tỏ quan tâm, với các nhà máy đặt tại Mỹ.
Trung Quốc từng đề xuất mức chi phí thấp hơn 1/3 có thể rất khó để chính quyền bang California từ chối, nhất là khi bang này mới chỉ huy động được một phần nhỏ trong tổng số vốn cần thiết cho dự án. Tuy nhiên, cuối cùng, các nhà thầu Trung Quốc không được chọn.
Dự án đã xem xét các công nghệ từ châu Âu (như TGV của Pháp hoặc ICE của Đức), nhưng Shinkansen được ưu tiên do tính tương thích với địa hình và yêu cầu an toàn của California, theo International Railway Journal. Cuối cùng, công nghệ tàu của dự án sẽ dựa trên các mẫu tàu cao tốc đã được kiểm chứng từ các hệ thống tương tự ở Nhật Bản, Đức và Pháp.
Cùng với đó, tàu cao tốc sẽ mang thiết kế tương tự các dòng tàu Shinkansen Series 500 và 700 tại Nhật Bản, với tốc độ tối đa khoảng khoảng 300 km/h, cũng như các mẫu TGV và Automotrice Grande Vitesse của Pháp. Công nghệ bánh thép chạy trên ray thép được ưu tiên sử dụng thay vì công nghệ tàu đệm từ.
Về công nghệ, TGV của Pháp sử dụng năng lượng điện, giúp giảm đáng kể khí thải và trở thành biểu tượng giao thông xanh tại châu Âu. Công nghệ đường sắt cao tốc của Pháp tích hợp hệ thống tín hiệu và điều khiển tự động, định vị GPS, cảm biến… Cùng với đó là kỹ thuật xây dựng hạ tầng tiên tiến, sử dụng vật liệu mới và công nghệ hiện đại để đảm bảo tính bền vững và độ bền của tuyến đường.
Trong khi đó, công nghệ đường sắt cao tốc của Đức, nổi bật với hệ thống ICE – có thiết kế khí động học giúp giảm lực cản, tiết kiệm năng lượng và tăng hiệu suất. Đức còn áp dụng hệ thống kiểm soát tàu tự động tiêu chuẩn châu Âu ETCS, giám sát liên tục vị trí và tốc độ, có thể can thiệp để giảm tốc hoặc dừng tàu khi cần thiết. Nhờ tự động hóa cao, tàu có thể tự khởi động, tăng tốc, phanh và dừng; người lái chỉ can thiệp khi có sự cố.
Công nghệ Shinkansen của Nhật là sự kết hợp giữa phần cứng và phần mềm. đường ray chuyên biệt, hệ thống điều khiển tàu tự động (ATC) và quản lý lịch trình tự động, đảm bảo tàu chạy đúng giờ đến từng giây. Nhờ đó, tàu có thể vận hành với khoảng cách giữa các chuyến rất ngắn mà vẫn duy trì độ chính xác và độ tin cậy cực cao, trung bình độ trễ chưa đến một phút.
Toàn bộ dự án đường sắt cao tốc từ San Francisco đến Los Angeles ban đầu dự kiến hoàn thành vào năm 2020 với chi phí 33 tỷ USD. Tuy nhiên, đến nay chi phí ước tính đã tăng vọt lên 128 tỷ USD.
Mới đây, CNBC cho biết, Bộ trưởng Giao thông Vận tải Mỹ đã chính thức tuyên bố cắt khoản tài trợ 4 tỷ USD từ chính phủ liên bang cho Cơ quan Đường sắt Cao tốc California (CHSRA), chỉ vài tuần sau khi cảnh báo về dự án tàu cao tốc của cơ quan này.
“Sau hơn một thập kỷ thất bại, sự yếu kém trong quản lý và năng lực của CHSRA đã chứng minh rằng họ không thể xây dựng tuyến tàu đến hư vô đúng thời hạn hay đúng ngân sách. Đã đến lúc chấm dứt dự án lãng phí này”, Bộ trưởng Giao thông Vận tải Mỹ cho biết.
Theo Reuters, hiện Thống đốc Newsom đang đề xuất ngân sách trước cơ quan lập pháp để kéo dài tài trợ thêm ít nhất 1 tỷ USD mỗi năm trong 20 năm tới, nhằm cung cấp đủ nguồn lực cho đoạn vận hành đầu tiên của dự án.