Trong đó, trị giá xuất khẩu là 34,71 tỷ USD, tăng 48,2% (tương ứng tăng 11,3 tỷ USD) và trị giá nhập khẩu là 32,66 tỷ USD, tăng 28,7% (tương ứng tăng 7,3 tỷ USD).
Cán cân thương mại có thặng dư
Tính trong quý I/2022, tổng trị giá xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam đạt 176,75 tỷ USD, tăng 14,3% tương ứng tăng 22,09 tỷ USD so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó, trị giá xuất khẩu đạt 89,1 tỷ USD, tăng 13,4% (tương ứng tăng 10,55 tỷ USD) và trị giá nhập khẩu đạt 87,64 tỷ USD, tăng 15,2% (tương ứng tăng 11,54 tỷ USD).
Trong tháng 3/2022, cán cân thương mại hàng hóa xuất siêu 2,05 tỷ USD. Tính trong quý I/2022, cán cân thương mại hàng hóa của cả nước xuất siêu 1,46 tỷ USD.
Tổng cục Hải quan ghi nhận tổng trị giá xuất nhập khẩu của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong tháng là 46,89 tỷ USD, tăng 35,7% so với tháng trước, đưa tổng trị giá xuất nhập khẩu của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong quý I/2022 lên 123,05 tỷ USD, tăng 12,8% (tương ứng tăng 13,9 tỷ USD) so với cùng kỳ năm 2021.
Trong đó, xuất khẩu hàng hóa của khối doanh nghiệp FDI trong tháng này là 25,84 tỷ USD, tăng 47,8% so với tháng trước, qua đó nâng trị giá xuất khẩu hàng hóa trong quý I/2022 của doanh nghiệp FDI lên 65,36 tỷ USD, tăng 10,6% (tương ứng tăng 6,28 tỷ USD) so với quý I/2021 và chiếm 73,4% tổng trị giá xuất khẩu của cả nước.
Ở chiều ngược lại, trị giá nhập khẩu của khối doanh nghiệp FDI trong tháng 3/2022 là 21,05 tỷ USD, tăng 23,3% so với tháng trước, đưa trị giá nhập khẩu của khối này trong quý I/2022 đạt 57,69 tỷ USD, tăng 15,3% (tương ứng tăng 7,66 tỷ USD) so với quý I/2021, chiếm 65,8% tổng trị giá nhập khẩu của cả nước.
Cán cân thương mại hàng hóa của khối doanh nghiệp FDI trong tháng 3/2022 đạt thặng dư 4,79 tỷ USD, đưa cán cân thương mại trong quý I/2022 lên mức thặng dư 7,68 tỷ USD.
Về thị trường xuất khẩu, Tổng cục Hải quan cho biết, trong quý đầu tiên của năm 2022, trao đổi thương mại hàng hóa của Việt Nam với châu Á đạt 115,39 tỷ USD, tăng 15,1% so với cùng kỳ năm 2021, tiếp tục chiếm tỷ trọng cao nhất (65,3%) trong tổng trị giá xuất nhập khẩu của cả nước.
Trị giá xuất nhập khẩu giữa Việt Nam với các châu lục khác lần lượt là: châu Mỹ: 36,38 tỷ USD, tăng 13,7%; châu Âu: 19,17 tỷ USD, tăng 9,8%; châu Đại Dương: 3,96 tỷ USD, tăng 28,7% và châu Phi: 1,86 tỷ USD, tăng nhẹ 1,7% so với 3 tháng/2021.
Xuất khẩu hàng hoá trong tháng 3/2022 là 34,71 tỷ USD
Tổng trị giá xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam trong tháng 3/2022 là 34,71 tỷ USD, tăng 48,2% so với tháng trước. Quy mô hàng hóa xuất khẩu của nước ta trong tháng đã tăng tới 11,3 tỷ USD so với tháng trước, với mức tăng lớn từ các nhóm hàng: điện thoại các loại & linh kiện tăng 2,7 tỷ USD; máy vi tính, sản phẩm điện tử & linh kiện tăng 1,47 tỷ USD; hàng dệt may tăng gần 1 tỷ USD; máy móc, thiết bị, dụng cụ & phụ tùng khác tăng 869 triệu USD; giày dép các loại tăng 664 triệu USD…
Tính trong quý I/2022, tổng trị giá xuất khẩu đạt 89,1 tỷ USD, tăng 13,4%, tương ứng tăng 10,55 tỷ USD so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: hàng dệt may tăng 1,46 tỷ USD; máy vi tính, sản phẩm điện tử & linh kiện tăng 1,22 tỷ USD; máy móc thiết bị dụng cụ & phụ tùng tăng 829 triệu USD; hàng thủy sản tăng 788 triệu USD… so với cùng kỳ năm 2021.
Một số nhóm hàng xuất khẩu chính gồm điện thoại các loại và linh kiện: xuất khẩu mặt hàng này trong tháng 3/2022 đạt trị giá 6,54 tỷ USD, tăng mạnh 70,3% so với tháng trước.
Tính trong quý I/2022, xuất khẩu mặt hàng điện thoại các loại và linh kiện đạt 14,88 tỷ USD, tăng 3,5% so với quý I/2021. Trong đó xuất khẩu nhóm hàng này sang thị trường Trung Quốc đạt 3,68 tỷ USD, tăng 14,4%; sang thị trường Hoa Kỳ đạt trị giá 2,81 tỷ USD, tăng 13,2%; sang thị trường EU(27) đạt 1,7 tỷ USD, giảm 16,6%; sang Hàn Quốc đạt 1,45 tỷ USD, tăng 35,7%... so với cùng kỳ năm trước.
Máy vi tính sản phẩm điện tử & linh kiện: trị giá xuất khẩu nhóm hàng máy vi tính, sản phẩm điện tử & linh kiện trong tháng đạt 5,31 tỷ USD, tăng 38,4% so với tháng trước, đưa trị giá xuất khẩu nhóm hàng này trong quý I/2022 đạt 13,24 tỷ USD, tăng 10,1% so với cùng kỳ năm 2021.
Trong quý I/2022, xuất khẩu máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện sang Hoa Kỳ đạt 3,31 tỷ USD, tăng 15,7% so với cùng kỳ năm trước; sang thị trường Trung Quốc đạt gần 3 tỷ USD, tăng 10,1%; sang thị trường EU(27) đạt 1,85 tỷ USD, tăng 18,5%; sang thị trường Hồng Kông đạt 1,39 tỷ USD, giảm 5,5%; sang thị trường Hàn Quốc đạt 1,03 tỷ USD, giảm nhẹ 0,6%...
Máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng khác: xuất khẩu nhóm hàng này trong tháng đạt 3,64 tỷ USD, tăng 31,4% so với tháng trước. Tính trong quý I/2022 trị giá xuất khẩu nhóm hàng này đạt 9,95 tỷ USD, tăng 9,1% so với cùng kỳ năm trước.
Các thị trường nhập khẩu máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng trong quý I vừa qua chủ yếu gồm: Hoa Kỳ với 4,38 tỷ USD, tăng nhẹ 0,3%; EU (27) với 1,28 tỷ USD, tăng 7,2%; Hàn Quốc với 699 triệu USD, tăng 25,7%; Trung Quốc với 668 triệu USD, tăng 21,4%... so với quý I/2021.
Hàng dệt may vẫn là nhóm hàng có đóng góp nhiều nhất tới 1,46 tỷ USD vào tăng xuất khẩu của cả nước trong quý I/2022 và có mức tăng so với cùng kỳ cao nhất kể từ năm 2012 đến nay.
Xuất khẩu hàng dệt may trong tháng đạt 3,05 tỷ USD, tăng 48,3%, tương ứng tăng hơn 1 tỷ USD so với tháng trước. Tính chung, trong quý I/2022, trị giá xuất khẩu nhóm hàng này đạt 8,68 tỷ USD, tăng 20,3% so với cùng kỳ năm trước, tương ứng tăng 1,46 tỷ USD. Đây là mức tăng so với cùng kỳ cao nhất kể từ năm 2012 đến nay.
Tính trong quý I/2022, Hoa Kỳ tiếp tục là thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất từ Việt Nam với trị giá đạt 4,36 tỷ USD, tăng 24,2% so với cùng kỳ năm trước và chiếm 50,3% tổng trị giá xuất khẩu hàng dệt may của cả nước; tiếp theo là thị trường EU(27) với 896 triệu USD, tăng 31,4%; thị trường Nhật Bản với 771 triệu USD, giảm 2,9%; Hàn Quốc với 754 triệu USD, tăng 6,9%...
Xuất khẩu giày dép các loại trong tháng đạt hơn 2 tỷ USD, tăng 49,4% so với tháng trước, đưa trị giá xuất khẩu giày dép của cả nước trong quý I/2022 đạt 5,29 tỷ USD, tăng 10,3% so với cùng kỳ năm 2021.
Hoa Kỳ và EU tiếp tục là 2 thị trường chính nhập khẩu nhóm hàng giày dép các loại của Việt Nam trong quý I/2022 với trị giá và tốc độ tăng so với quý I/2021 lần lượt là 2,25 tỷ USD (tăng 17,5%) và 1,3 tỷ USD (tăng 19,3%). Tính chung, trị giá nhóm hàng giày dép xuất khẩu sang 2 thị trường chính đạt 3,55 tỷ USD, chiếm 67% tổng trị giá xuất khẩu nhóm hàng này của cả nước.
Hàng thủy sản lần đầu tiên xuất khẩu đạt trên 1 tỷ USD/tháng và tính đến hết quý I/2022, xuất khẩu nhóm hàng này đóng góp lớn thứ 4 vào tăng xuất khẩu cả nước so với cùng kỳ năm trước.
Trong tháng 3/2022, xuất khẩu thủy sản đạt 1,02 tỷ USD, tăng gần 60% so với tháng trước. Trong đó tăng mạnh sang Trung Quốc 123%; Nhật Bản tăng 82%; EU(27) tăng 62%; Hoa Kỳ tăng 57%;…
Tính đến hết quý I/2022, xuất khẩu hàng thủy sản đạt 2,52 tỷ USD, tăng cao 45,4% so với cùng kỳ năm trước, tương ứng tăng 788 triệu USD. Trong đó, xuất khẩu sang tất cả các thị trường chính đều tăng cao cụ thể: sang Hoa Kỳ đạt 574 triệu USD, tăng 70,8%; sang Nhật Bản đạt 347 triệu USD, tăng 13%; sang EU(27) đạt 297 triệu USD, tăng 57,4%.
Riêng thị trường Trung Quốc quý I/2022 đạt mức cao nhất từ trước tới nay với 326 triệu USD, tăng 104% so với cùng kỳ năm trước, tương ứng tăng 167 triệu USD.
Sắt thép các loại: trong tháng 3/2022, lượng xuất khẩu sắt thép đạt 956 nghìn tấn, trị giá đạt 909 triệu USD, tăng 76,4% về lượng và tăng 71,9% về trị giá so với tháng trước.
Tính trong quý I/2022, lượng sắt thép xuất khẩu là 2,28 triệu tấn, giảm 21,1% so với cùng kỳ năm trước và trị giá đạt 2,3 tỷ USD, tăng 14%. Xuất khẩu sắt thép các loại chủ yếu sang EU(27) đạt 465 nghìn tấn, tăng mạnh 23,5%; sang Campuchia đạt 376 nghìn tấn, tăng 2,3%; sang Malaixia với 193 nghìn tấn, tăng 4,9%... so với cùng kỳ năm 2021.
Nhập khẩu hàng hóa trong tháng 3/2022 là 32,66 tỷ USD
Nhập khẩu hàng hóa trong tháng 3/2022 là 32,66 tỷ USD, tăng 28,7% về số tương đối và tăng 7,28 tỷ USD về số tuyệt đối so với tháng trước. Trong đó, tăng mạnh ở các nhóm hàng như: máy vi tính sản phẩm điện tử & linh kiện tăng 1,45 tỷ USD, tương ứng tăng 22%; xăng dầu các loại tăng 725 triệu USD, tương ứng tăng 115%; máy móc thiết bị dụng cụ & phụ tùng khác tăng 580 triệu USD, tương ứng tăng 19,3%; dầu thô tăng 523 triệu USD, tương ứng tăng 304%; hạt điều tăng 371 triệu USD, tương ứng tăng 275,3%...
Tổng trị giá nhập khẩu hàng hóa của cả nước trong quý I/2022 đạt 87,64 tỷ USD, tăng 15,2%, tương ứng tăng 11,54 tỷ USD so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó, tăng mạnh nhất ở các nhóm hàng như: máy vi tính, sản phẩm điện tử & linh kiện tăng 5,06 tỷ USD; xăng dầu các loại tăng 1,38 tỷ USD; than đá tăng 748 triệu USD; điện thoại các loại & linh kiện tăng 690 triệu USD; vải các loại tăng 615 triệu USD…
Một số nhóm hàng nhập khẩu chính như máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện: trị giá nhập khẩu trong tháng là hơn 8 tỷ USD, tăng 22% so với tháng trước. Tính chung, trị giá nhập khẩu nhóm hàng này trong quý I/2022 đạt 21,73 tỷ USD, tăng 30,4%, tương ứng tăng 5,06 tỷ USD so với cùng kỳ năm trước.
Trong quý I/2022, nhập khẩu nhóm hàng này từ thị trường Hàn Quốc là 6,43 tỷ USD, tăng mạnh 46,4% (tương ứng tăng 2,04 tỷ USD); từ Trung Quốc là 6,1 tỷ USD, tăng 30,9% (tương ứng tăng 1,44 tỷ USD); từ Đài Loan với 3,05 tỷ USD, tăng 36,7% (tương ứng tăng 818 triệu USD); từ Nhật Bản với 1,75 tỷ USD, tăng 38,7% (tương ứng tăng 489 triệu USD)…
Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác: trị giá nhập khẩu trong tháng đạt 3,58 tỷ USD, tăng 19,3% so với tháng trước. Qua đó, đưa trị giá nhập khẩu của nhóm hàng này trong quý I/2022 lên 10,53 tỷ USD, giảm 3,1% so với cùng kỳ năm trước.
Trung Quốc tiếp tục là thị trường lớn nhất cung cấp nhóm hàng này cho Việt Nam trong quý I/2022 với trị giá là 5,3 tỷ USD, giảm nhẹ 0,5%; tiếp theo là các thị trường Hàn Quốc với 1,67 tỷ USD, giảm 5,7%; Nhật Bản với 1,02 tỷ USD, giảm 7%… so với cùng kỳ năm trước.
Nhóm hàng nguyên phụ liệu phục vụ ngành dệt may, da, giày (bao gồm: bông, xơ sợi dệt, vải các loại, nguyên phụ liệu dệt, may, da, giầy): Trị giá nhập khẩu nhóm hàng này trong tháng 3/2022 là 2,42 tỷ USD, tăng 28,3% so với tháng trước. Qua đó đưa trị giá nhập khẩu nhóm hàng này trong quý I/2022 đạt 6,81 tỷ USD, tăng 17,5% tương đương tăng 1,02 tỷ USD so với quý I/2021.
Nhóm hàng nguyên phụ liệu phục vụ cho ngành dệt may da giày nhập khẩu vào Việt Nam trong quý I/2022 chủ yếu có xuất xứ từ Trung Quốc, chiếm tỷ trọng tới 50%, với 3,43 tỷ USD, tăng 21,8% so với quý I/2021. Tiếp theo là các thị trường: Đài Loan với 674 triệu USD, tăng 10,7%; Hàn Quốc với 607 triệu USD, tăng 7,3%...
Điện thoại các loại và linh kiện: nhập khẩu nhóm hàng này trong tháng đạt gần 1,9 tỷ USD, tăng 16% so với tháng trước. Tính trong quý I/2022, trị giá nhập khẩu nhóm hàng này đạt 5,54 tỷ USD, tăng 14,2% so với cùng kỳ năm 2021.
Trong quý I/2022, Hàn Quốc và Trung Quốc vẫn là 2 thị trường chính cung cấp điện thoại các loại và linh kiện cho Việt Nam với tổng trị giá đạt 5,13 tỷ USD, chiếm 93% tổng trị giá nhập khẩu của nhóm hàng này. Trong đó, nhập khẩu từ Hàn Quốc đạt 2,89 tỷ USD, tăng mạnh 38,8%; nhập khẩu từ Trung Quốc là 2,24 tỷ USD, giảm 0,9%… so với cùng kỳ năm trước.
Ô tô nguyên chiếc các loại: lượng ô tô nguyên chiếc đăng ký tờ khai hải quan nhập khẩu trong tháng 3/2022 đạt hơn 10,3 nghìn chiếc với trị giá là 234 triệu USD, tăng 12,9% về lượng và tăng 10,4% về trị giá so với tháng trước.
Tính trong quý I/2022, cả nước nhập khẩu gần 24 nghìn chiếc với trị giá 572 triệu USD, giảm 31,9% về lượng và giảm 29,6% về trị giá so với quý I/2021.
Trong quý I/2022, ô tô nguyên chiếc các loại chủ yếu có xuất xứ từ Thái Lan, Inđônêxia và Trung Quốc. Cụ thể, nhập từ Thái Lan là 12,2 nghìn chiếc, giảm 36,7%; từ Inđônêxia là 6,76 nghìn chiếc, giảm 24,4% và từ Trung Quốc là 2,21 nghìn chiếc, giảm 43,8%... so với quý I/2021.
Xăng dầu các loại: trong tháng 3/2022, lượng nhập khẩu xăng dầu là 1,31 triệu tấn với trị giá là 1,36 tỷ USD, tăng mạnh 75% về lượng và tăng mạnh 114,8% về trị giá so với tháng trước. Tính trong quý I/2022, cả nước nhập khẩu 2,66 triệu tấn xăng dầu các loại với trị giá 2,45 tỷ USD, tăng 26,8% về lượng và tăng mạnh 128,5% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021.
Trong quý I/2022, xăng dầu nhập khẩu chủ yếu có xuất xứ từ: Hàn Quốc với 1,06 triệu tấn, tăng mạnh 107%; Malaysia với 562 nghìn tấn, giảm 29,8%; Singapor với 353 nghìn tấn, tăng 3,5%... so với quý I/2021.