Đó là xi măng.
Theo thống kê của Vụ Khoa học công nghệ, Môi trường và Vật liệu xây dựng (Bộ Xây dựng), trong 6 tháng đầu năm 2025, sản lượng sản xuất xi măng của Việt Nam đạt 49,8 triệu tấn, tăng 18% so với cùng kỳ.
Theo số liệu mới nhất của Cục Thống kê, xuất khẩu mặt hàng clinker, xi măng những tháng gần đây phục hồi mạnh. Đặc biệt, riêng sản lượng xuất khẩu trong tháng 8 đạt 3,2 triệu tấn, trị giá 122 triệu USD. Tính lũy kế 8 tháng năm 2025, toàn ngành xi măng xuất khẩu 23 triệu tấn sản phẩm, trị giá 866 triệu USD, tăng 12,2% về lượng và tăng 9,9% về trị giá so với cùng kỳ năm ngoái.
Các chuyên gia nhận định rằng, xi măng là một trong những lĩnh vực quan trọng, phát triển nhanh, có đóng góp cho GDP hàng năm lên tới trên 5 tỷ USD. Mặt hàng này không những đáp ứng nhu cầu phát triển hạ tầng trong nước mà còn xuất khẩu sang nhiều nước trên thế giới.
Đáng chú ý, ngành xi măng còn có thể đóng góp đáng kể để chung tay cắt giảm phát thải và giải quyết bài toán rác thải nhựa ở Việt Nam, thông qua một giải pháp. Đó là đồng xử lý trong ngành xi măng. Đồng xử lý được đánh giá là một giải pháp có thể nhân rộng, bằng cách xử lý an toàn nhựa khó tái chế trong các lò nung xi măng, cũng như ngăn chặn rác thải nhựa đổ ra đại dương đồng thời thay thế nhiên liệu hóa thạch (than) trong sản xuất công nghiệp.
Đây cũng là chủ để được nhiều chuyên gia thảo luận tại Hội thảo "Từ Thí điểm đến Chính sách: Giải quyết Rác thải Nhựa Không thể Tái chế thông qua Đồng xử lý trong Ngành Xi măng", chiều 3/10.
Hội thảo có chia sẻ về thành công của của Dự án "Biến rác thải nhựa đại dương thành cơ hội trong nền kinh tế tuần hoàn" (OPTOCE) do Chính phủ Na Uy tài trợ. Đồng thời hội thảo thảo luận về tiềm năng nhân rộng giải pháp đồng xử lý để giảm thiểu rò rỉ nhựa ra môi trường, giảm sự phụ thuộc vào than của ngành xi măng và cắt giảm khí nhà kính.

Tại Hội thảo, bà Hilde Solbakken, Đại sứ Na Uy tại Việt Nam nhấn mạnh: "Ứng phó với rác thải nhựa đại dương và biến đổi khí hậu là ưu tiên hàng đầu của Na Uy – cả trên phạm vi toàn cầu và tại Việt Nam. Thông qua dự án OPTOCE, chúng tôi đã chứng kiến các giải pháp có cơ sở khoa học, như đồng xử lý, có thể biến rác thải nhựa thành nguồn tài nguyên mang lại lợi ích cho khí hậu, nền kinh tế và cộng đồng. Na Uy sẽ tiếp tục cam kết nhân rộng cách tiếp cận này tại Việt Nam và trong toàn khu vực, đặc biệt trong bối cảnh hợp tác của hai nước Na Uy – Việt Nam trong khuôn khổ JETP".
Theo bà Hilde Solbakken, về mặt kinh tế, đồng xử lý cũng rất hấp dẫn. Một nghiên cứu tại Ấn Độ cho thấy chi phí xử lý rác thải bằng đồng xử lý chỉ khoảng 25 USD/tấn, chưa đến một nửa so với chi phí đốt truyền thống (62 USD/tấn). Đây là giải pháp nhanh hơn, rẻ hơn để giảm sử dụng than và hạn chế ô nhiễm nhựa. Điều này đặc biệt quan trọng tại Việt Nam, nơi ngành xi măng phát thải hơn 60 triệu tấn CO₂ mỗi năm, chiếm hơn 15% tổng phát thải quốc gia.
"Đồng xử lý mang lại giải pháp sạch hơn, thân thiện với khí hậu, đồng thời hỗ trợ mục tiêu phát thải ròng bằng 0 của Việt Nam", Đại sứ Na Uy tại Việt Nam nhấn mạnh.
Ngành xi măng Việt Nam có thể biến rác thành "vàng đen"

Theo PGS, TS Lương Đức Long, Phó Chủ tịch Hiệp hội Xi măng Việt Nam, đồng xử lý rác trong lò nung xi măng là giải pháp an toàn và hiệu quả nhất. Hiệp hội xi măng Việt Nam và các nhà máy xi măng đã và đang tích cực phát triển đồng xử lý rác trong lò nung xi măng.
Hiệp hội Xi măng Việt Nam mong muốn có sự đồng hành của các doanh nghiệp môi trường để chuyển hoá rác thành nhiên liệu thay thế. Cùng với đó, hy vọng nhà nước sớm cụ thể hoá chính sách ưu đãi để các doanh nghiệp tham gia đồng xử lý được thụ hưởng và tạo điều kiện cho các tổ chức tư vấn, hỗ trợ chuyển giao công nghệ đồng xử lý cho các doanh nghiệp.
"Nếu cùng quyết tâm chung tay, chúng ta có thể nhân rộng phương thức này qua đó biến rác thành "vàng đen", biến nhà máy xi măng thành địa chỉ đồng xử lý hoàn hảo nhất, góp phần xây dựng Việt Nam xanh, sạch, đẹp trong kỷ nguyên vươn mình của đất nước", Phó Chủ tịch Hiệp hội Xi măng Việt Nam nhấn mạnh.

Ông Kåre Helge Karstensen, Trưởng nhóm khoa học và Giám đốc Chương trình OPTOCE, chia sẻ, cách đây hơn 6 năm, OPTOCE được khởi động như một sáng kiến khu vực. Lúc đầu, chương trình được thực hiện ở năm quốc gia, trong đó có Việt Nam và sau đó được mở rộng ra tám quốc gia khắp châu Á.
"Thành công ngày hôm nay đã chứng minh rằng việc đồng xử lý nhựa không thể tái chế trong các lò nung xi măng không chỉ khả thi về mặt kỹ thuật, thân thiện với môi trường mà còn có thể mang lại tác động nhanh chóng và trên quy mô lớn. Bước tiếp theo là vượt ra khỏi giai đoạn thí điểm và tích hợp giải pháp này vào các khuôn khổ chính sách quốc gia để thúc đẩy thay đổi mang tính hệ thống", ông Kåre Helge Karstensen nhấn mạnh.
Theo vị chuyên gia này, lò nung xi măng đạt đến nhiệt độ rất cao và phá hủy hoàn toàn các chất độc hại. Thay vì tạo ra chất thải, khoáng chất sẽ được hấp thụ trực tiếp vào sản phẩm xi măng. So với các phương pháp đốt truyền thống, đồng xử lý sẽ ngăn chặn phát thải khí mê-tan và không tạo ra tro bay độc hại.
"Việt Nam có gần 60 nhà máy và 90 lò nung, vì vậy tiềm năng là rất lớn. Nhưng tất nhiên, nếu nhà máy nằm rất xa nơi phát sinh rác thải, thì không có lý do chính đáng nào để sử dụng nó để xử lý giảm phát thải. Vì vậy, khi các nhà máy bắt đầu đồng xử lý hoặc xử lý rác thải, họ cần đảm bảo rằng họ có một số nguồn rác thải đáng tin cậy ở gần đó. Thông thường sẽ có một lượng chất thải nhất định phát sinh trong phạm vi bán kính khoảng 200 km", ông Kåre Helge Karstensen cho biết.

Hội thảo "Từ Thí điểm đến Chính sách: Giải quyết Rác thải Nhựa Không thể Tái chế thông qua Đồng xử lý trong Ngành Xi măng" do Viện Nghiên cứu SINTEF (Na Uy), Đại sứ quán Na Uy tại Việt Nam, phối hợp với Hiệp hội Xi măng Việt Nam (VNCA) tổ chức. Hội thảo đã quy tụ hơn 100 đại biểu, là các nhà hoạch định chính sách, đại diện các doanh nghiệp, các nhà nghiên cứu, các tổ chức quốc tế, các tổ chức tài chính và các đối tác phát triển.

Theo Statista, trong năm 2024, sản lượng xi măng của Trung Quốc tương đương hơn một nửa lượng xi măng của thế giới, với 1,9 triệu tấn. Ấn Độ là nước sản xuất xi măng lớn thứ hai thế giới, với sản lượng lên tới 450 triệu tấn. Tiếp đó, Việt Nam vượt Mỹ, Nga, để trở thành nước sản xuất lớn thứ ba thế giới, với sản lượng hơn 110 triệu tấn.
Theo các chuyên gia, ngành xi măng Việt Nam đang đối diện với bài toán cung vượt cầu, khi tổng công suất thiết kế lên tới 120 triệu tấn/năm, trong khi nhu cầu trong nước chỉ khoảng 65 triệu tấn. Điều này cũng khiến thị trường ngày càng cạnh tranh khốc liệt.