Hiện nay, hạ tầng viễn thông Việt Nam được đánh giá đạt trình độ tiên tiến, tương đương nhiều nước phát triển.
Hạ tầng xếp hạng thứ 67/193 nước, tăng 7 bậc so với năm 2022. Tốc độ Internet băng rộng di động đạt 160 Mbps, đứng thứ 13 trên 104 quốc gia. Tốc độ Internet cố định đạt 264 Mbps, đứng thứ 11 trên 154 nước được khảo sát.
Tại hội thảo về chuyển đổi số mới đây, ông Nguyễn Phong Nhã, Phó cục trưởng Cục Viễn thông (Bộ Khoa học và Công nghệ) cho biết, rằng hạ tầng viễn thông của Việt Nam đang sở hữu công nghệ tiên tiến và phát triển song hành với thế giới trong lĩnh vực 5G.
Để dẫn chứng, ông Nhã nêu, hệ thống hạ tầng của Việt Nam được xếp hạng thứ 67 trên 193 quốc gia, tăng 7 bậc so với năm 2022. Tốc độ Internet băng rộng di động trung bình đạt 160 Mbps, đứng thứ 13 trong tổng số 104 nước khảo sát, trong khi tốc độ Internet cố định đạt 264 Mbps, thuộc nhóm đứng đầu với vị trí 11/154 quốc gia.
Theo ông Nhã, khoảng 85% hộ gia đình trong nước đã sử dụng Internet cáp quang. Mạng cáp quang đã kéo đến toàn bộ thôn, bản trên cả nước – điều mà, theo ông, “không phải quốc gia nào cũng làm được do chi phí đầu tư rất lớn”.
Phó cục trưởng Cục Viễn thông khẳng định, sóng di động hiện phủ khắp lãnh thổ, còn hạ tầng dữ liệu đang tăng trưởng nhanh với 45 trung tâm dữ liệu đã được xây dựng.
Việt Nam có 7 tuyến cáp quang biển, giúp tăng khả năng dự phòng và bảo đảm kết nối quốc tế ổn định. Năng lực điện toán đám mây được đánh giá ở mức “rất sẵn sàng”, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước phát triển.
Về chi phí, Phó cục trưởng Cục Viễn thông nhận định dịch vụ Internet tại Việt Nam có giá “phổ biến và bình dân”, giúp mọi người dân đều có cơ hội tiếp cận. Cũng theo lãnh đạo Cục Viễn thông, những kết quả này có được nhờ chính sách mở cửa thị trường và cạnh tranh mạnh mẽ giữa các doanh nghiệp viễn thông.
Mặc dù hạ tầng đã đáp ứng yêu cầu để phát triển kinh tế số, ông Nhã cho rằng Việt Nam vẫn cần tiếp tục hoàn thiện, mở rộng hơn nữa. Khi nhu cầu sử dụng tăng nhanh, ông nhấn mạnh yêu cầu bảo đảm kết nối số ổn định, băng thông rộng hơn và ưu tiên công nghệ xanh. Hạ tầng số hiện ở mức “tốt”, nhưng theo ông, “cần tốt hơn nữa”.
Ông cũng lưu ý các nhà mạng phải nhìn thấy cơ hội phát triển dịch vụ số dựa trên chính hạ tầng đã đầu tư. Một trong những đề xuất của ông là mở API để doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể xây dựng ứng dụng, qua đó tạo thêm nhiều dịch vụ hoạt động trên môi trường trực tuyến.
Chỉ số Internet Việt Nam vượt hầu hết quốc gia
Theo số liệu từ bảng xếp hạng toàn cầu Ookla Speedtest tháng 8/2025, mạng cố định của Việt Nam đạt tốc độ trung bình khoảng 261,8 Mbps, đưa Việt Nam vào Top 10 toàn cầu về broadband cố định — lần đầu tiên đạt thứ hạng đó kể từ khi bảng xếp hạng ra đời.
Ở mảng Internet cố định, Việt Nam đang thuộc top mạnh nhất trong nhóm nước đang phát triển, chỉ thua nhóm nước phát triển rất cao như Singapore, Hàn Quốc, UAE, Monaco, Mỹ, Canada, Thụy Sĩ.
Với mạng di động, theo số liệu Speedtest Global Index công bố tháng 11/2025, Việt Nam đạt tốc độ trung bình 146,64 Mbps, xếp thứ 3 trong khu vực ASEAN, chỉ sau các quốc gia như Singapore và Malaysia.
Mạng 5G tại Việt Nam cũng ghi nhận mức tải xuống trung bình đáng kể, hai chỉ số 5G mới của Việt Nam là 447,03 Mbps (download) và 99,26 Mbps (upload), độ trễ chỉ 0,024 giây.
Về hạ tầng, nửa đầu 2025, tỷ lệ thuê bao Internet cố định ở Việt Nam đạt 24,4 thuê bao/100 dân, cùng lúc đó độ phủ cáp quang hộ gia đình đạt 85,3% — cao hơn mức trung bình toàn cầu (60%). Những con số này phản ánh nỗ lực liên tục của Việt Nam trong việc mở rộng mạng lưới cáp quang và phát 5G, giúp cải thiện đáng kể tốc độ và độ ổn định.
Với tốc độ Internet mới, Việt Nam đang vươn lên mạnh mẽ trong bảng xếp hạng toàn cầu — đủ để các chuyên gia đánh giá rằng Việt Nam không còn là người theo sau, mà đang dần trở thành một trong những thị trường Internet cạnh tranh nhất Đông Nam Á. Điều này mở ra cơ hội lớn cho phát triển công nghệ, dịch vụ số, giáo dục và kinh tế số, nếu giữ được đà cải thiện và tiếp tục đầu tư hạ tầng.
