Trong tháng 1/2023, doanh nghiệp bất động sản phải thanh toán 10.500 tỷ đồng trái phiếu đến hạn (chiếm 60% giá trị TPDN đến hạn) và doanh nghiệp xây dựng phải thanh toán 5.900 tỷ đồng trái phiếu đến hạn (chiếm 34% giá trị TPDN đến hạn). Nếu tính cả số lượng trái phiếu mua lại trước hạn, áp lực thanh toán của doanh nghiệp lớn hơn nhiều.
Đặc biệt, sau sự việc liên quan đến công ty Vạn Thịnh Phát, việc mua lại trái phiếu trước hạn càng tăng mạnh. Điển hình, trong tháng 11/2022, nhiều doanh nghiệp đã chủ động mua lại trái phiếu đã phát hành với tổng giá trị khoảng 163.000 tỷ đồng, tăng 32% so với cùng kỳ.
Tính đến ngày 30/12/2022, tổng giá trị trái phiếu đã được các doanh nghiệp mua lại trước hạn là 210.573 tỷ đồng (tăng 46% so với cùng kỳ năm 2021)
Theo nhận định của các chuyên gia, năm 2023-2025 được coi là đỉnh đáo hạn trái phiếu với khối lượng đáo hạn lên tới gần 700.000 tỷ đồng. Công ty Cổ phần Chứng khoán KB Việt Nam (KBSV) cho biết, tính theo lượng đáo hạn các tháng trong năm 2023, giai đoạn giữa năm sẽ là giai đoạn căng thẳng đối với thị trường khi áp lực trái phiếu đến hạn lớn.
Ông Lê Hoàng Châu, Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản TP.HCM cho hay, vướng mắc phổ biến của nhiều doanh nghiệp bất động sản hiện nay là thiếu tiền, giảm thanh khoản do không huy động được nguồn vốn của khách hàng, cũng như tiếp cận tín dụng.
“Không chỉ doanh nghiệp, mà người mua nhà, nhà đầu tư cũng khó tiếp cận tín dụng. Nhiều trường hợp trớ trêu là ngân hàng đã ký hợp đồng tín dụng, nhưng dừng giải ngân, khiến cả doanh nghiệp và khách hàng đều gặp khó khăn lớn”, ông Châu cho biết.
Dù Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã nới room tín dụng từ đầu tháng 12/2022, nhưng theo ông Châu, việc nới room diễn ra chậm, nên vốn chưa kịp bơm vào nền kinh tế. Tín dụng cả năm 2022 mới tăng 14,5%, chưa sử dụng hết hạn mức.
TS. Võ Trí Thành, chuyên gia kinh tế cho rằng, giải quyết bài toán vốn cho bất động sản ở Việt Nam là câu chuyện dài. Theo đó, bên cạnh phát triển các thị trường vốn, thị trường tín dụng, cần phát triển các định chế tài chính khác nhau như các loại hình quỹ phát triển bất động sản. Trước mắt, cần phân loại dự án bất động sản để ngân hàng yên tâm rót vốn, ưu tiên các dự án phục vụ nhu cầu thật. Hai là cho các doanh nghiệp tiếp tục phát hành trái phiếu, có thể là đảo nợ để dự án được triển khai, khơi thông dòng tiền.
Ông Nguyễn Quốc Hùng, Tổng thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam khẳng định, tất cả dự án bất động sản đầy đủ pháp lý, các dự án liên quan đến nhà ở tiêu dùng phục vụ người dân, kể cả tín chấp tiền lương, vẫn được ngân hàng cho vay. Những dự án mà người dân không tiếp cận được vốn tín dụng chủ yếu là do tính pháp lý của dự án hoặc năng lực chủ đầu tư không đảm bảo.
“Bất động sản là lĩnh vực rủi ro, nên ngân hàng phải xem xét rất thận trọng khi cho vay. Dự án đảm bảo tính pháp lý, giá cả phù hợp thì không khó tiếp cận tín dụng. Với những dự án vừa muốn tiếp cận vốn, vừa vướng thủ tục pháp lý, thì ngân hàng không khuyến khích”, ông Hùng nhấn mạnh.
Trước việc các doanh nghiệp bất động sản khó tiếp cận tín dụng, một số chuyên gia tài chính ngân hàng cho rằng, doanh nghiệp bất động sản cần nghiêm túc nhìn nhận lạimình. Bởi dự án được bung ra tràn lan, phân khúc cao cấp nhiều hơn bình dân, giá cả bị đẩy lên quá cao. Chỉ khi doanh nghiệp bất động sản chấp nhận giảm bớt lợi nhuận, người dân chấp nhận được mức giá, thì dòng vốn mới luân chuyển.
Thực tế, bất động sản là lĩnh vực gắn bó mật thiết với ngân hàng, chiếm hơn 20% tổng dư nợ tín dụng và chiếm 70-80% tài sản bảo đảm của các ngân hàng. Các tổ chức tín dụng rất muốn cho vay rồi cho vay tiếp và muốn thị trường bất động sản khơi thông để dòng vốn luân chuyển, thu hồi được nợ.
“Tuy vậy, nếu không cẩn thận, các tổ chức tín dụng lại bơm vốn để bù đắp phần đáo hạn trái phiếu doanh nghiệp. Điều đó cực kỳ nguy hiểm trong kiểm soát tài sản”, ông Nguyễn Quốc Hùng cảnh báo.