Các hình thức thuế hiện hành
Thuế doanh thu (trước năm 1999) là loại thuế đánh trực tiếp trên doanh thu bán hàng tại tất cả các khâu từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng, dẫn đến tình trạng thuế chồng thuế qua từng khâu trung gian làm tăng giá của vật tư, hàng hóa trong quá trình sản xuất, lưu thông.
Thuế khấu trừ - Thuế Giá trị gia tăng (VAT) được áp dụng từ ngày 01/01/1999 để thay thế thuế doanh thu, khắc phục việc thuế chồng thuế bằng cách chỉ tính thuế trên phần giá trị tăng thêm ở từng khâu trung gian; Được áp dụng đối với doanh nghiệp và tổ chức có đủ điều kiện theo dõi quản lý kế toán. Thuế GTGT phải nộp = Thuế GTGT đầu ra - Thuế GTGT đầu vào được khấu trừ. Cơ chế này đảm bảo hàng hóa lưu thông qua các khâu trung gian không bị đánh thuế chồng, giúp kiểm soát nguồn gốc, giá trị hàng hóa một cách minh bạch.
Tuy nhiên, song song với VAT, các hình thức thuế khoán và thuế kê khai vẫn được duy trì để phù hợp với đặc thù hộ kinh doanh cá thể, nhỏ lẻ.
Trong đó Thuế khoán là loại thuế cơ quan thuế ấn định trước một mức thuế cố định hàng năm theo kê khai ước tính của hộ kinh doanh; không yêu cầu lập sổ sách kế toán, không hoàn thuế đầu vào, không phải xuất hóa đơn theo từng giao dịch. Nếu có nhu cầu xuất hóa đơn, hộ kinh doanh phải đề nghị cơ quan thuế cấp hóa đơn lẻ cho từng lần phát sinh và nộp thêm thuế tương ứng.
Còn Thuế kê khai được tính dựa trên doanh thu thực tế phát sinh và tỷ lệ thuế suất áp dụng theo từng ngành nghề. Hộ kinh doanh kê khai phải lập đầy đủ sổ sách, chứng từ kế toán, từ 01/01/2025 phải sử dụng hóa đơn điện tử cho từng khoản thu nhưng không được khấu trừ thuế đầu vào và không phải quyết toán thuế hàng năm.
Tác động và hạn chế của thuế khoán, thuế kê khai
Thuế khoán và Thuế kê khai về bản chất đều là chi phí của hộ kinh doanh giống như thuế doanh thu trước đây, tức là càng nhiều khâu trung gian thì Nhà nước thu được nhiều thuế hơn.
Tuy nhiên, hai hình thức này cũng bộc lộ một số bất cập, đó là việc xác định doanh thu thực tế rất khó kiểm soát, dễ phát sinh thất thu do kê khai không trung thực hoặc cơ quan thuế áp mức khoán không sát thực tế. Hình thức thu thuế này khiến giá hàng hóa qua các khâu trung gian bị đội giá. Để cạnh tranh, nhiều hộ kinh doanh buộc phải tìm cách né thuế, dẫn đến việc mua bán không hóa đơn, trốn doanh thu và hình thành tập quán thương mại không minh bạch.
Đặc biệt, do người bán không bị bắt buộc phải xuất hóa đơn, việc xác định nguồn gốc hàng hóa lưu thông trên thị trường rất khó khăn. Đây chính là môi trường thuận lợi cho hàng giả, hàng nhái, hàng nhập lậu tồn tại mà khó bị kiểm soát bằng các biện pháp hành chính thông thường. Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến các doanh nghiệp sản xuất chân chính, làm giảm khả năng cạnh tranh và gây thất thu ngân sách.
Cần có lộ trình, giải pháp hỗ trợ đồng bộ
Theo chủ trương của Chính phủ, từ năm 2026 sẽ tiến tới xóa bỏ hoàn toàn thuế khoán. Các hộ kinh doanh phải thực hiện kê khai và xuất hóa đơn cho từng giao dịch, kể cả với đơn hàng nhỏ nhất. Đây là biện pháp nhằm minh bạch hóa thị trường, kiểm soát được nguồn gốc hàng hóa, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh. Tuy nhiên, thực tế triển khai cho thấy, việc thay đổi một tập quán thương mại hình thành lâu dài là điều không dễ dàng, khi cả người bán và người mua đều chưa có thói quen, ý thức tuân thủ nghĩa vụ thuế. Để thực hiện hiệu quả, cần có các lộ trình, giải pháp hỗ trợ đồng bộ.
Theo đó, không nên xác định thuế VAT trong phương pháp thuế kê khai mà nên gọi đúng bản chất là thuế doanh thu (không được khấu trừ) để tránh nhầm lẫn với thuế VAT được khấu trừ thuế đầu vào.
Việc chuyển sang hình thức thuế kê khai cần có lộ trình, áp dụng mức thuế suất hợp lý theo quy mô, nhóm mặt hàng để người dân dễ chấp nhận, dần thay đổi tập quán, nhận thức.
Đáng chú ý là phải đơn giản hóa chế độ kế toán, hóa đơn chứng từ cho hộ kinh doanh áp dụng phương pháp thuế kê khai dễ hiểu, dễ áp dụng. Trong phương pháp thuế kê khai, cơ quan thuế chủ yếu quản lý đầu ra nên nếu mọi tổ chức kinh doanh đều xuất hóa đơn kê khai đầu ra (đăng ký từng hóa đơn với cơ quan thuế) thì cơ quan thuế không cần quản lý đầu vào, không cần theo dõi sổ sách theo dõi chi tiết của từng hộ kinh doanh nữa, khi cần đối chiếu chỉ cần vào hệ thống là có thể trích xuất được nguồn hàng hóa dịch vụ; Nói cách khác, chỉ cần xây dựng phần mềm quản lý thuế cho từng hộ kinh doanh theo định danh cá nhân của chủ hộ, hóa đơn điện tử miễn phí, thân thiện với người dùng, kết hợp hỗ trợ đào tạo, trang bị thiết bị cần thiết cho đối tượng áp dụng.
Đảm bảo hạ tầng công nghệ thông tin ổn định, tin cậy, nhất là tại khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa.
Đối với các mô hình kinh doanh nhỏ lẻ có doanh thu siêu thấp (lợi nhuận ước chỉ ngang với lao động phổ thông), nên có quy định miễn thuế hoặc áp mức thuế suất bằng 0 để tránh tạo gánh nặng cho ngân sách do chi phí quản lý thuế có thể lớn hơn số thuế thu được. Việc quản lý chủ yếu dựa trên sự tự giác, sự giám sát của cộng đồng và chính quyền địa phương, qua đó đưa mọi hoạt động, đối tượng kinh doanh vào diện kiểm soát, theo dõi.
Việc xóa bỏ thuế khoán, chuyển sang hình thức kê khai minh bạch và áp dụng thuế VAT toàn diện là chủ trương đúng đắn nhằm kiểm soát nguồn gốc hàng hóa, tăng thu ngân sách, tạo môi trường kinh doanh công bằng. Tuy nhiên, để triển khai hiệu quả, cần có lộ trình hợp lý, chính sách hỗ trợ phù hợp để tạo sự đồng thuận từ cộng đồng kinh doanh cũng như người tiêu dùng, tránh để tăng giá cả thị trường...
*Tác giả Ngô Gia Cường, Giám đốc Công ty TNHH Thẩm định giá và Giám định Việt Nam.