Giá dầu tiếp đà giảm
Giá dầu giảm, khi các nhà đầu tư cân nhắc giữa triển vọng nguồn cung dồi dào trong năm tới, so với việc OPEC+ hoãn kế hoạch tăng sản lượng thêm 3 tháng cho đến tháng 4/2025.
Chốt phiên giao dịch ngày 5/12, dầu thô Brent giảm 22 US cent tương đương 0,3% xuống 72,09 USD/thùng và dầu WTI giảm 24 US cent tương đương 0,35% xuống 68,3 USD/thùng.
OPEC+, Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) cùng các đồng minh bao gồm Nga, đã có kế hoạch dỡ bỏ việc cắt giảm sản lượng từ tháng 10/2024, song nhu cầu toàn cầu chậm lại và sản lượng ngoài nhóm tăng, đã buộc tổ chức này phải hoãn kế hoạch này nhiều lần.
Việc dỡ bỏ dần mức cắt giảm 2,2 triệu thùng/ngày (bpd) sẽ bắt đầu từ tháng 4/2025, với mức tăng hàng tháng là 138.000 bpd và kéo dài 18 tháng cho đến tháng 9/2026. OPEC+ chiếm khoảng 1/2 lượng dầu toàn cầu.
Tuy nhiên, các nhà phân tích cho rằng triển vọng nguồn cung năm 2025 dồi dào, sẽ bù đắp cho quyết định của OPEC+ trong ngày 5/12/2024.
Giá khí tự nhiên tại Mỹ tăng 1%
Giá khí tự nhiên tại Mỹ tăng 1%, do dự báo thời tiết lạnh hơn, nhu cầu sưởi ấm trong 2 tuần tới cao hơn so với dự kiến trước đó và sản lượng khí tự nhiên đưa vào các nhà máy xuất khẩu khí tự nhiên hóa lỏng của quốc gia này ngày càng tăng.
Giá khí tự nhiên kỳ hạn tháng 1/2025 trên sàn New York tăng 3,6 US cent tương đương 1,2% lên 3,079 USD/mmBTU.
Giá vàng giảm
Giá vàng giảm, do lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ tăng, sau công bố số liệu về số đơn xin trợ cấp thất nghiệp hàng tuần, cùng với đó là thị trường chờ đợi số liệu về bảng lương phi nông nghiệp của Mỹ, để đưa ra đánh giá về lập trường của Cục Dự trữ Liên bang về việc cắt giảm lãi suất.
Vàng giao ngay trên sàn LBMA giảm 0,7% xuống 2.630,3 USD/ounce. Vàng kỳ hạn tháng 2/2025 trên sàn New York giảm 1% xuống 2.648,4 USD/ounce.
Lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ kỳ hạn 10 năm tăng 0,3%, trong khi đồng bitcoin tăng vượt mức 100.000 USD – lần đầu tiên trong phiên ngày 5/12/2024.
Giá đồng giảm tiếp, chì cao nhất 1,5 tháng
Giá đồng giảm, chịu áp lực giảm bởi nhu cầu rủi ro giảm, trong bối cảnh không chắc chắn về các biện pháp kích thích tại nước tiêu thụ kim loại hàng đầu – Trung Quốc.
Giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn London giảm xuống 9.081 USD/tấn.
Tính đến nay, giá đồng giảm 10% kể từ mức cao nhất 4 tháng trong ngày 30/9/2024, một phần do thất vọng về việc Trung Quốc thiếu các biện pháp kích thích tài chính mạnh để thúc đẩy nền kinh tế trì trệ của nước này.
Giá đồng kỳ hạn tháng 1/2025 trên sàn Thượng Hải giảm 0,3% xuống 74.530 CNY (10.258,77 USD)/tấn.
Ngoài ra, thị trường còn chịu áp lực giảm bởi lo ngại tác động của mức thuế quan do Tổng thống đắc cử Mỹ, Donald Trump đề xuất và bất kỳ hành động trả đũa nào từ Bắc Kinh.
Giá chì trên sàn London tăng 0,5% lên 2.097 USD/tấn, sau khi đạt 2.100 USD/tấn – cao nhất kể từ ngày 17/10/2024.
Giá quặng sắt và thép giảm
Giá quặng sắt trên sàn Đại Liên giảm, do tâm lý các nhà đầu tư giảm sút sau khi phương tiện truyền thông nhà nước tại quốc gia tiêu thụ hàng đầu - Trung Quốc – nhấn mạnh về những cải thiện về chất lượng trước cuộc họp được mong đợi từ lâu, dự kiến sẽ định hình xu hướng tăng trưởng kinh tế vào năm tới.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2025 trên sàn Đại Liên giảm 1,17% xuống 800,5 CNY (110,14 USD)/tấn.
Đồng thời, giá quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2025 trên sàn Singapore giảm 1,51% xuống 103,75 USD/tấn.
Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây giảm 1,41%, thép cuộn cán nóng giảm 1,53%, thép cuộn giảm 2,59% và thép không gỉ giảm 2,02%.
Giá cao su tại Nhật Bản giảm
Giá cao su tại Nhật Bản giảm, rời bỏ chuỗi tăng 2 phiên liên tiếp, do không chắc chắn về triển vọng nhu cầu và giá cao su tổng hợp giảm, làm lu mờ tác động của tình trạng gián đoạn nguồn cung tại Đông Nam Á bởi thời tiết ẩm ướt.
Giá cao su kỳ hạn tháng 5/2025 trên sàn Osaka (OSE) giảm 2,8 JPY tương đương 0,74% xuống 373,1 JPY (2,49 USD)/kg.
Đồng thời, giá cao su kỳ hạn tháng 5/2025 trên sàn Thượng Hải giảm 60 CNY tương đương 0,32% xuống 18.640 CNY (2.564,03 USD)/tấn.
Giá cao su butadien kỳ hạn tháng 1/2025 trên sàn Thượng Hải giảm 335 CNY tương đương 2,49% xuống 13.100 CNY (1.801,98 USD)/tấn.
Giá cao su kỳ hạn tháng 1/2025 trên sàn Singapore tăng 0,6% lên 202,4 US cent/kg.
Giá cà phê giảm tại Việt Nam, đồng loạt tăng tại Indonesia, New York và London
Hoạt động giao dịch tại Việt Nam diễn ra khá ảm đạm, vì hạt cà phê tươi từ vụ thu hoạch 2024/25 vẫn chưa được đưa ra thị trường, trong khi giá cà phê tại Indonesia tăng.
Giá cà phê robusta xuất khẩu của Việt Nam (loại 2, 5% đen & vỡ) chào bán ở mức trừ lùi 100-150 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 3/2025 trên sàn London.
Tại thị trường nội địa, cà phê nhân xô được bán với giá 105.000-110.000 VND (4,14-4,33 USD)/kg, giảm so với 127.500 – 128.200 VND/kg 1 tuần trước đó.
Tại Indonesia, giá cà phê robusta loại 4 (80 hạt lỗi) chào bán ở mức cộng 150 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 1/2025 trên sàn London, so với mức trừ lùi 400 USD/tấn 1 tuần trước đó.
Tại New York, giá cà phê arabica tăng 9,8 US cent tương đương 3,2% lên 3,135 USD/lb, sau khi giảm tổng cộng 7% trong phiên ngày 2/12 và 3/12/2024.
Tại London, giá cà phê robusta tăng 2,6% lên 4.873 USD/tấn, sau khi giảm tổng cộng 15% trong phiên ngày 2/12 và 3/12/2024.
Giá đường giảm
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2025 trên sàn ICE giảm 0,06 US cent tương đương 0,3% xuống 21,2 US cent/lb, sau khi chạm mức thấp nhất hơn 2 tháng (20,7 US cent/lb) trong phiên ngày 2/12/2024.
Trong khi, giá đường trắng kỳ hạn tháng 3/2025 trên sàn London thay đổi nhẹ ở mức 550,2 USD/tấn.
Giá đậu tương, ngô và lúa mì tăng
Giá đậu tương trên sàn Chicago tăng, do giá dầu đậu tương tăng khi triển vọng vụ thu hoạch cải dầu tại Canada thấp hơn so với dự kiến, dấy lên mối lo ngại về nguồn cung dầu thực vật toàn cầu.
Trên sàn Chicago, giá đậu tương kỳ hạn tháng 1/2025 tăng 10 US cent lên 9,93-3/4 USD/bushel, giá ngô kỳ hạn tháng 3/2025 tăng 5 US cent lên 4,35 USD/bushel. Giá lúa mì giao cùng kỳ hạn tăng 10 US cent lên 5,58-1/4 USD/bushel.
Giá gạo giảm tại Ấn Độ và Việt Nam, không thay đổi tại Thái Lan
Giá gạo đồ xuất khẩu từ Ấn Độ giảm, do đồng rupee giảm xuống mức thấp kỷ lục, ngay cả khi nhu cầu về mặt hàng chủ lực duy trì vững, trong khi tại Việt Nam và Thái Lan diễn ra trầm lắng.
Tại Ấn Độ - nước xuất khẩu gạo hàng đầu, giá gạo 5% tấm ở mức 444-450 USD/tấn, giảm so với 445-453 USD/tấn 1 tuần trước đó. Giá gạo trắng 5% tấm của Ấn Độ được báo giá ở mức 450-458 USD/tấn
Đồng rupee Ấn Độ chạm mức thấp kỷ lục so với đồng USD, làm tăng đáng kể lợi nhuận biên của các nhà xuất khẩu.
Đối với loại 5% tấm, giá gạo Việt Nam ở mức 517 USD/tấn, giảm so với 520 USD/tấn 1 tuần trước đó.
Trong 11 tháng đầu năm 2024, xuất khẩu gạo của Việt Nam tăng 10,6% so với cùng kỳ năm ngoái, lên 8,5 triệu tấn, kim ngạch xuất khẩu tăng 22,4% so với cùng kỳ năm ngoái lên 5,31 tỉ USD.
Tại Thái Lan, giá gạo 5% tấm vẫn ở mức 510 USD/tấn.
Giá dầu cọ tăng
Giá dầu cọ tại Malaysia tăng, được hỗ trợ bởi ước tính tồn trữ dầu trong tháng 11/2024 của nước này – nước xuất khẩu dầu cọ lớn thứ 2 thế giới – giảm.
Giá dầu cọ kỳ hạn tháng 2/2025 trên sàn Bursa Malaysia tăng 106 ringgit tương đương 2,11% lên 5.138 ringgit (1.161,13 USD)/tấn.
Giá một số mặt hàng chủ chốt sáng ngày 6/12