Giá dầu giảm phiên thứ 4 liên tiếp
Giá dầu giảm phiên thứ 4 liên tiếp và chạm mức thấp nhất nhiều tháng, do triển vọng lãi suất cao hơn trong thời gian dài, dấy lên mối lo ngại xung quanh tăng trưởng nhu cầu tại thị trường dầu lớn nhất thế giới.
Chốt phiên giao dịch ngày 23/5, dầu thô Brent giảm 54 US cent tương đương 0,7% xuống 81,36 USD/thùng – thấp nhất kể từ tháng 1/2024 và dầu WTI giảm 70 US cent tương đương 0,9% xuống 76,87 USD/thùng – thấp nhất 3 tháng.
Ngoài ra, giá dầu chịu áp lực giảm khi Cơ quan Thông tin Năng lượng (EIA) cho biết, tồn trữ dầu thô của Mỹ trong tuần trước tăng 1,8 triệu thùng, so với ước tính giảm 2,5 triệu thùng.
Giá khí tự nhiên tại Mỹ giảm 7%
Giá khí tự nhiên tại Mỹ giảm 7% từ mức cao nhất 4 tháng trong phiên trước đó, do dấu hiệu giá cao gần đây khiến các nhà khoan dầu ngừng cắt giảm sản lượng.
Giá khí tự nhiên kỳ hạn tháng 6/2024 trên sàn New York giảm 18,5 US cent tương đương 6,5% xuống 2,657 USD/mmBTU. Trong phiên trước đó, giá khí tự nhiên đạt mức cao nhất kể từ ngày 17/1/2024.
Giá vàng thấp nhất 1 tuần
Giá vàng giảm xuống mức thấp nhất hơn 1 tuần và giảm phiên thứ 3 liên tiếp, khi các nhà đầu tư ngày càng lo ngại về thời điểm cắt giảm lãi suất của Mỹ và hoạt động kinh doanh của Mỹ tăng mạnh.
Vàng giao ngay trên sàn LBMA giảm 1,8% xuống 2.336,39 USD/ounce – thấp nhất kể từ ngày 13/5/2024. Vàng kỳ hạn tháng 6/2024 trên sàn New York giảm 2,3% xuống 2.337,2 USD/ounce. Giá vàng đạt mức cao kỷ lục (2.449,89 USD/ounce) trong phiên ngày 20/5/2024. Tính từ đầu năm đến nay, giá vàng tăng 14%.
Giá đồng giảm phiên thứ 3 liên tiếp
Giá đồng giảm phiên thứ 3 liên tiếp, do hoạt động bán ra chốt lời và người tiêu dùng từ chối mua ở mức cao gần kỷ lục.
Giá đồng trên sàn London giảm 0,4% xuống 10.383 USD/tấn, trong phiên có lúc giảm xuống 10.210 USD/tấn. Tuy nhiên, tính từ đầu năm đến nay, giá đồng tăng 20%.
Giá quặng sắt và thép giảm
Giá quặng sắt trên sàn Đại Liên giảm, theo xu hướng giá kim loại cơ bản và kim loại quý suy yếu, do đồng USD tăng mạnh.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2024 trên sàn Đại Liên giảm 1,09% xuống 906,5 CNY (125,13 USD)/tấn.
Đồng thời, giá quặng sắt kỳ hạn tháng 6/2024 trên sàn Singapore giảm 1,77% xuống 119,45 USD/tấn.
Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây giảm 0,29%, thép cuộn cán nóng giảm 0,05%, thép không gỉ giảm 0,68% và thép cuộn giảm 4%.
Giá cao su tại Nhật Bản tiếp đà tăng
Giá cao su tại Nhật Bản tăng phiên thứ 2 liên tiếp, trong bối cảnh đồng JPY suy yếu, trong khi số liệu nhà máy trong nước khả quan và thị trường chứng khoán tăng mạnh đã thúc đẩy tâm lý các nhà đầu tư.
Giá cao su kỳ hạn tháng 10/2024 trên sàn Osaka (OSE) tăng 1,7 JPY tương đương 0,52% lên 327,9 JPY (2,09 USD)/kg.
Đồng thời, giá cao su kỳ hạn tháng 9/2024 trên sàn Thượng Hải tăng 55 CNY lên 14.865 CNY (2.051,93 USD)/tấn.
Giá cao su kỳ hạn tháng 6/2024 trên sàn Singapore tăng 0,8% lên 171,3 US cent/kg.
Giá cà phê tăng tại Việt Nam và Indonesia, giảm tại New York và London
Giá cà phê tại Việt Nam tăng, sau khi giá cà phê tại London tăng do lo ngại nguồn cung, cùng với đó là giá cà phê tại Indonesia cũng tăng.
Tại thị trường nội địa, cà phê nhân xô được bán với giá 110.000-114.500 VND (4,32-4,5 USD)/kg, tăng so với 100.400-101.500 VND/kg 1 tuần trước đó.
Tại Indonesia, giá cà phê robusta loại 4 (80 hạt lỗi) chào bán ở mức cộng 1.250 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 7/2024 trên sàn London, tăng so với mức cộng 1.200 USD/tấn 1 tuần trước đó.
Tại New York, giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 7/2024 giảm 2,2% xuống 2,1565 USD/lb.
Tại London, giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 7/2024 giảm 98 USD tương đương 2,5% xuống 3.819 USD/tấn, sau khi tăng lên mức cao nhất 3 tuần (3.994 USD/tấn) trong đầu phiên giao dịch.
Giá đường diễn biến trái chiều
Giá đường thô kỳ hạn tháng 7/2024 trên sàn ICE tăng 0,03 US cent tương đương 0,2% xuống 18,26 US cent/lb, sau khi giảm 1,8% trong phiên ngày 22/4/2024.
Trong khi đó, giá đường trắng kỳ hạn tháng 8/2024 trên sàn London giảm 0,3% xuống 539,7 USD/tấn.
Giá lúa mì và ngô tăng, đậu tương giảm
Giá lúa mì tại Mỹ tăng sau khi đạt mức cao nhất 10 tháng trong phiên trước đó, do thời tiết khô kéo dài và lo ngại về vụ thu hoạch tại Biển Đen đã hỗ trợ thị trường.
Trên sàn Chicago, giá lúa mì kỳ hạn tháng 7/2024 tăng 5 US cent lên 6,98 USD/bushel, sau khi đạt mức cao nhất kể từ tháng 7/2023 trong phiên trước đó. Giá ngô kỳ hạn tháng 7/2024 tăng 2-3/4 US cent lên 4,64 USD/bushel, trong khi giá đậu tương giao cùng kỳ hạn giảm 7 US cent xuống 12,39-1/4 USD/bushel.
Giá gạo tăng tại Ấn Độ, giảm tại Thái Lan và không thay đổi tại Việt Nam
Giá xuất khẩu gạo Ấn Độ tăng, khi người mua chọn giá chào rẻ hơn từ nước xuất khẩu hàng đầu, trong khi giá gạo Thái Lan đạt mức cao nhất 3 tháng, do nhu cầu từ Indonesia và hoạt động mua vào từ trong nước tăng.
Tại Ấn Độ - nước xuất khẩu gạo hàng đầu, giá gạo 5% tấm ở mức 536-544 USD/tấn, tăng so với 531-539 USD/tấn 1 tuần trước đó.
Nhu cầu từ khách mua hàng châu Phi được cải thiện, do Ấn Độ chào bán gạo ở mức giá thấp hơn so với các nước cạnh tranh khác, thương nhân có trụ sở tại Mumbai cho biết.
Đối với loại 5% tấm, giá gạo Việt Nam ở mức 585-590 USD/tấn, không thay đổi so với 1 tuần trước đó.
Tại Thái Lan, giá gạo 5% tấm ở mức 630-635 USD/tấn, giảm nhẹ so với 632-640 USD/tấn 1 tuần trước đó.
Giá dầu cọ tăng
Giá dầu cọ tại Malaysia tăng, do đồng ringgit suy yếu và kỳ vọng nhu cầu được cải thiện.
Giá dầu cọ kỳ hạn tháng 8/2024 trên sàn Bursa Malaysia tăng 24 ringgit tương đương 0,62% lên 3.892 ringgit (827,73 USD)/tấn.
Giá một số mặt hàng chủ chốt sáng ngày 24/5