Mặt tối ngành chăn gà trị giá hơn 46 tỷ USD của Mỹ

Băng Băng | 16:12 30/05/2025

Vào năm 1970, mỗi người Mỹ tiêu thụ 16 con gà và 1/5 con bò mỗi năm thì đến năm 2020, con số này là 23,5 con gà và chưa đến 1/10 con bò.

Mặt tối ngành chăn gà trị giá hơn 46 tỷ USD của Mỹ
Ảnh minh họa bằng AI

Theo tờ The Vox, nền văn minh của nước Mỹ không bắt đầu từ những tòa nhà chọc trời, những chiếc iPhone hay ô tô mà là từ những con gà.

Lý do vô cùng đơn giản, người Mỹ cũng như toàn thể nhân loại tiêu thụ quá nhiều thịt gà. Riêng trong năm 2020, toàn cầu đã tiêu thụ hơn 70 tỷ con gà, cao gần 9 lần so với chỉ 8 tỷ con gà bị thịt năm 1965.

Báo cáo của Bộ Nông nghiệp Mỹ tháng 4/2022 cho thấy tổng doanh số bán trứng và thịt gia cầm tại Mỹ đạt 46,1 tỷ USD, cung cấp khoảng 2 triệu việc làm và tạo thêm 566 tỷ USD cho nền kinh tế.

Thậm chí trong giải Super Bowl LVII, người Mỹ tiêu thụ bình quân 1,45 tỷ cánh gà một buổi tối chỉ để xem trận đấu.

Thế nhưng ít ai biết được rằng đằng sau ngành chăn nuôi gà là cả một mảng tối mà các doanh nghiệp không muốn người tiêu dùng biết.

Gà "lười"

Theo Vox, ngành chăn gà đã có những thay đổi chóng mặt trong suốt những năm qua. Phần lớn trong số 9 tỷ con gà bị sẻ thịt mỗi năm ở Mỹ hiện nay đều chỉ đứng im trên chính những đống phân của mình. Không phải những con gà này quá lười mà với tốc độ vỗ béo quá nhanh, chúng gần như chẳng thể đi nổi.

Nhờ việc chọn giống của "The Chicken of Tomorrow" mà những chú gà lấy thịt ngày nay ngày càng to khỏe nhưng chân yếu. Trước đây một con gà cần 84 ngày để vỗ béo đạt 1,4kg theo tiêu chuẩn thị trường để có thể bán lấy thịt thì nay chỉ cần 42 ngày và trọng lượng cũng nặng gấp đôi.

Một nghiên cứu tại Canada đã lấy giống gà năm 1957, 1978 và 2005 ra để cùng nuôi như nhau trong 56 ngày. Kết quả là giống gà năm 1957 nặng 0,9 kg, giống năm 1978 nặng 1,8kg còn giống năm 2005 nặng tới 4,2kg.

Đặc biệt những dòng gà siêu nạc (fast-growing broilers) được chọn lọc di truyền để đạt tốc độ tăng trọng tối đa, thường đạt trọng lượng giết mổ 2 kg chỉ sau khoảng 6 tuần nuôi, trong khi gà bình thường cần đến 12–14 tuần để đạt trọng lượng tương tự. Chính sự ép tăng trưởng này đã tạo nên các "Franken-chickens" hay những con gà lớn nhanh bất thường, chịu áp lực khổng lồ lên hệ xương và cơ thể.

Hậu quả của việc nuôi gà công nghiệp tiêu cực này là xương và khớp gà không kịp phát triển đủ chắc khỏe để chịu trọng lượng quá nhanh, dẫn đến đau đớn, sụn khớp hỏng, gà đi khập khiễng hoặc thậm chí không thể di chuyển được.

Tim và phổi của những con gà siêu nạc này phải hoạt động quá tải để cung cấp máu và oxy cho khối cơ ngày càng lớn, dẫn đến hiện tượng suy tim, tràn dịch màng tim và suy hô hấp, làm tỉ lệ chết non trên trang trại tăng cao.

Ngoài ra, khâu tiêu hóa và trao đổi chất bị áp lực, gà dễ mắc hoại tử ruột, viêm ruột, rối loạn điện giải…

Để phòng ngừa bệnh trong điều kiện nuôi đông đúc và gà yếu do tăng trọng, ngành công nghiệp phải dùng kháng sinh với tần suất cao gấp 9 lần so với khi nuôi giống chậm lớn (slower-growing).

Việc sử dụng kháng sinh kéo dài không chỉ tạo áp lực chọn lọc cho vi khuẩn kháng thuốc mà còn có thể để lại dư lượng trong thịt, ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng và gia tăng nguy cơ siêu vi khuẩn.

Ở Mỹ, khoảng 6% gà công nghiệp chết trước khi vào chuỗi cung ứng do các vấn đề về tim mạch, nhiễm trùng hoặc chấn thương khi vận chuyển, con số này tương đương gần 600 triệu con mỗi năm. Sự lãng phí lớn này vừa gây tổn thất kinh tế, vừa đặt ra câu hỏi về tính bền vững và đạo đức trong chăn nuôi đại trà.

Với người tiêu dùng, gà tăng trọng quá nhanh tích trữ nhiều mỡ hơn, làm giảm giá trị protein so với gà chậm lớn, chưa kể đến dư lượng thuốc kháng sinh có thể ảnh hưởng đến sức khỏe khách hàng.

Bên cạnh đó, khí thải amoniac, chất thải rắn từ mật độ nuôi cao và sử dụng kháng sinh lan truyền kháng thuốc vào đất, nước.

Nhiều hãng thực phẩm và siêu thị lớn đang chuyển sang giống chậm lớn (slower-growing breeds) để nâng cao phúc lợi gà và giảm dùng kháng sinh. Tuy nhiên vì lợi nhuận doanh nghiệp và thói quen chuộng hàng giá rẻ của người tiêu dùng, những con gà siêu nạc vẫn được phát triển trong vô số trang trại khắp nước Mỹ.

Khởi nguyên

Ngành chăn gà chỉ đóng vai trò khá nhỏ bé cho nông nghiệp Mỹ so với chăn bò và lợn cho đến tận thập niên 1940.

Sau nhiều năm phát triển, cả một chuỗi cung ứng về chăn gà mới dần phát triển đồng bộ và vào năm 1946, thị trường bắt đầu đòi hỏi giống gà cho nhiều thịt hơn.

Tổ chức "The Chicken of Tomorrow" được thành lập với sự tham gia của nhiều nhà khoa học, nhân viên chính phủ, doanh nhân ngành thịt... để phát triển một giống gà mới cho nhiều thịt hơn là giống hiện nay chủ yếu để lấy trứng.

Trong số 40 giống gà từ các trang trại, gia đình nhà Charles Vantress đến từ bang California chiến thắng. Ngay sau đó, giống gà nhà Vantress bắt đầu tràn ngập thị trường Mỹ để rồi thương hiệu này được bán cho tập đoàn Tyson Foods vào năm 1974.

Sau khi Tyson sáp nhập với đối thủ Cobb để thành lập Cobb Vantress vào năm 1986, công ty mới đã thống trị không chỉ Mỹ mà còn ảnh hưởng đến toàn cầu. Năm 2016, một nửa số giống gà lấy thịt trên thế giới là đến từ nguồn Cobb500 của tập đoàn này.

Bên cạnh đó, kỹ thuật chăn nuôi cũng phát triển nhờ sự bùng nổ của công nghệ. Kể từ khi Alexander Fleming phát minh ra kháng sinh Penixilin vào năm 1928 thì sau 20 năm, loại thuốc này đã được các nhà chăn nuôi ứng dụng cho gà nhằm chống bệnh dịch cũng như tăng trưởng nhanh hơn.

Thập niên 1970, sự gia tăng béo phì, tiểu đường khiến nhiều chuyên gia dinh dưỡng khuyến nghị người dân Mỹ nên ăn gia cầm và cá thay cho thịt bò, lợn. Trong khoảng 1970-2019, lượng tiêu thụ thịt bò bình quân đầu người tại Mỹ đã giảm 28% nhưng thịt gà lại tăng 173%.

Thế rồi các nhà hàng, chuỗi đồ ăn nhanh như KFC cũng vào cuộc, biến thịt gà thành ngành công nghiệp thực phẩm, dịch vụ béo bở. Năm 2019, người Mỹ tiêu thụ bình quân 2,3 tỷ suất thịt gà chiên (Chicken Nugget) mỗi năm. Quốc gia này xẻ thịt khoảng 9 tỷ con gà mỗi năm, tương đương 24,7 triệu con gà bị giết mỗi ngày.

Trong suốt 50 năm qua, dù dân số Mỹ tăng trưởng nhưng số bò nuôi và lấy thịt hàng năm lại giảm vài triệu con. Trái lại, số lượng gà lại tăng thêm 6 tỷ con. Vào năm 1970, mỗi người Mỹ tiêu thụ 16 con gà và 1/5 con bò mỗi năm thì đến năm 2020, con số này là 23,5 con gà và chưa đến 1/10 con bò.

Tuy nhiên liệu thịt gà có giữ được vị trí của nó hay không còn là một câu hỏi bởi theo Vox, sự trỗi dậy của ngành thịt nhân tạo trong phòng thí nghiệm trước những nỗi lo về hủy hoại môi trường bởi nông nghiệp có thể làm thay đổi mọi thứ trong tương lai.

*Nguồn: Vox, BI


(0) Bình luận
Mặt tối ngành chăn gà trị giá hơn 46 tỷ USD của Mỹ
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO