Đây là một trong các nội dung được các diễn giả bình luận tại Diễn đàn quản trị doanh nghiệp Việt Nam 2025 (VCG Forum 2025) với chủ đề "Khai phá tiềm năng tài sản số" do Hội các Nhà quản trị doanh nghiệp Việt Nam (VACD), Tạp chí điện tử Nhà Quản Trị - TheLEADER.vn tổ chức.
Doanh nghiệp cần sân chơi minh bạch
Phát biểu khai mạc ông Nguyễn Đức Thuận, Chủ tịch Hội các Nhà quản trị doanh nghiệp Việt Nam (VACD) cho biết, kể từ ngày 01/01/2026, tài sản số sẽ chính thức bước ra khỏi “vùng xám” để trở thành một kênh dẫn vốn chính thống và hiệu quả cho nền kinh tế. Cơ hội mà tài sản số mở ra là rất lớn, nhưng thực tế doanh nghiệp đang phản ứng ra sao?
Theo khảo sát từ VACD, hơn một nửa doanh nghiệp trong Hội tin rằng “Tài chính - Kế toán” sẽ là lĩnh vực được ứng dụng hiệu quả nhất, theo sát là lĩnh vực “Quản lý tài sản và quyền sở hữu”.
Điều này cho thấy, doanh nghiệp Việt Nam không nhìn tài sản số như một sản phẩm đầu cơ, mà xem đó là công cụ để minh bạch hóa dòng tiền và số hóa quyền sở hữu tài sản thực. Một bộ phận không nhỏ vẫn đang chờ khung pháp lý hoàn thiện, song song là nỗi lo về nhân lực hay an ninh mạng.
“Điều này gửi đi một thông điệp mạnh mẽ: Doanh nghiệp không sợ công nghệ, không sợ cạnh tranh, họ cần một sân chơi minh bạch”, ông Thuận nhấn mạnh.
Token tài sản thực để gọi vốn đầu tư
Ông Nguyễn Phú Dũng, đồng sáng lập Tập đoàn PILA và thành viên Hội đồng đầu tư quỹ Solaris Impact thuộc Pacific Bridge Capital chỉ ra một nghịch lý trong nền tảng tài chính hiện tại, khi tốc độ quay vòng vốn của Việt Nam chỉ bằng 1/3 so với Singapore.
Nguyên nhân chính nằm ở việc vốn đang bị đọng nhiều trong tài sản đảm bảo, chủ yếu là bất động sản. Cùng với đó, sự thiếu hụt các chính sách, cơ chế và rào cản pháp lý khiến việc tiếp cận vốn cho các dự án đổi mới sáng tạo trở nên khó khăn.
Ông Dũng cho biết, tài sản số được chia thành hai nhóm, bao gồm tài sản số thuần túy (Digital-native Assets) và tài sản số được mã hóa (Tokenized Real-world Assets – RWA).
Trong hai loại tài sản số này, thế mạnh của Việt Nam nằm ở RWA, thông qua việc mã hóa, “hóa lỏng” tài sản thực là những thứ Việt Nam sở hữu độc nhất, chẳng hạn như Vịnh Hạ Long, Đảo Phú Quốc hay những món ăn truyền thống dân tộc.
“Nếu Việt Nam không tận dụng thế mạnh này thì rất khó để đuổi kịp thế giới”, ông Dũng nhấn mạnh.
Ông Dũng nhận định, cơ hội tại Việt Nam là rất lớn, bao gồm bất động sản, năng lượng điện gió, logistics, tài sản vô hình như quyền khai thác du lịch hay sở hữu trí tuệ nội dung số. Tất cả những đặc trưng này hoàn toàn có thể chuyển đổi thành tài sản số để kêu gọi vốn đầu tư.
Hoạt động tài chính không thể tách rời hệ sinh thái tài sản số
Liên quan đến hệ sinh thái tài sản mã hóa tại Việt Nam, ông Trần Quý, Viện trưởng Viện Phát triển Kinh tế số Việt Nam cho biết, Nghị quyết 05 cho phép 5 đơn vị thử nghiệm sàn tài sản mã hoá, nhiều người bình luận con số đó quá ít.
Nhưng theo ông Quý, so với thị trường chứng khoán, chỉ có hai sàn Hà Nội và TP.HCM, thì 5 “sàn mã hóa” là đã rất nhiều.
Để trở thành tài sản số đúng nghĩa và hợp pháp, nó phải đáp ứng hai điều kiện: Một là có quyền tài sản, được công nhận. Hai là nằm trong hệ sinh thái đầy đủ, gồm thẩm định, lưu ký… giống như bất động sản muốn có giá trị phải có đơn vị định giá.
Nghị quyết 05 thực chất nhằm tạo cầu nối giữa phần chìm và phần nổi, thông qua hai yếu tố: Niềm tin, bằng cách đưa pháp luật và cơ chế giám sát vào; Sự đồng bộ về công nghệ, để việc quản trị tài sản số diễn ra minh bạch, an toàn.
Cũng theo ông Trần Quý, hiện việc xây dựng mô hình Trung tâm Tài chính Quốc tế của Việt Nam không thể tách rời hệ sinh thái tài sản số. Về khung pháp lý, bước đầu đã hoàn thiện; TP.HCM cũng đã khởi động những chương trình liên quan. Gần đây, Đề án số 3 tổ chức một hội thảo nhằm xây dựng các đề án kinh tế phục vụ cho Trung tâm Tài chính.
Cốt lõi đầu tiên của mô hình này là Sandbox – cơ chế thử nghiệm có kiểm soát. Sandbox cho phép triển khai những tư duy và mô hình quản trị mà khung pháp lý bên ngoài chưa thể áp dụng.
Điểm đặc biệt là cơ chế thanh toán đa dạng. Trong khuôn khổ Trung tâm Tài chính Quốc tế, doanh nghiệp có thể thanh toán bằng nhiều loại ngoại tệ, điều mà ở bên ngoài không cho phép.
Hơn nữa, mô hình này cho phép sử dụng một số đơn vị tài sản mã hóa (active mã hóa) vào thanh toán. Đây là bước mở quan trọng để tích hợp các sản phẩm tài chính số hóa vào hoạt động thực tế.
Hiện TP.HCM và Đà Nẵng đang tích cực hoàn thiện khung vận hành cho các Trung tâm Tài chính Quốc tế, để đưa những cơ chế đặc thù này vào thực tế.

