Tại Diễn đàn, ông Cao Anh Sơn – Phó Tổng giám đốc Tập đoàn Viettel cho biết, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã xác định phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là một trong những khâu đột phá quan trọng nhằm tạo bước chuyển mạnh mẽ về năng suất, chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế số.
Trên tinh thần đó, Nghị quyết 57-NQ/TW của Trung ương cũng tiếp tục nhấn mạnh yêu cầu phát triển hạ tầng công nghệ số hiện đại, dung lượng siêu lớn, băng thông siêu rộng; đồng thời làm chủ các công nghệ chiến lược như trí tuệ nhân tạo, internet vạn vật, dữ liệu lớn, điện toán đám mây và công nghiệp bán dẫn hay là các cái công nghệ lõi.
Cụ thể hóa các chủ trương lớn, Chính phủ đã triển khai Nghị quyết 71/NQ-CP, Kế hoạch 02-KH/BCĐTW của Ban Chỉ đạo Trung ương. Qua đó, hạ tầng số được xác định là hạ tầng của nền kinh tế, giữ vai trò nền tảng cho phát triển kinh tế số, chính phủ số và xã hội số.
Trong bối cảnh đó, cùng với quá trình chuyển đổi số quốc gia, vai trò của nhà mạng viễn thông đã có sự chuyển dịch căn bản. Nhà mạng không chỉ cung cấp các dịch vụ kết nối truyền thống mà đã trở thành lực lượng chủ lực xây dựng, cung cấp các hạ tầng số toàn diện. Hạ tầng này không chỉ đảm bảo thông tin liên lạc thông suốt, an toàn mà còn tạo nền tảng cho các hoạt động kinh tế số, quản lý xã hội và cung cấp các dịch vụ công trên không gian số, lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm, góp phần hiện thực hóa các chủ trương định hướng lớn của Đảng và Nhà nước.
Năm 2025, Viettel cơ bản đã thực hiện tắt sóng 2G, 3G. Viettel cũng như các nhà mạng đã cơ bản hoàn thành việc tắt sóng 2G vào cuối năm 2024 và đã phổ cập smartphone tại Việt Nam, phủ sóng 5G đến 70% dân số Việt Nam, đưa vào vận hành mạng lưới 22.500 trạm 5G theo Nghị quyết 103/NQ-QH của Quốc hội. Viettel cũng đã triển khai và về đích trước 1 tháng so với kế hoạch triển khai hơn 22.500 trạm 5G. Lũy kế đến thời điểm hiện nay, Viettel đã phát được gần 30.000 trạm 5G tại Việt Nam.
Từ kết quả này, chất lượng dịch vụ di động của Viettel đã góp phần đưa tốc độ di động, tốc độ cố định băng rộng, internet băng rộng của Việt Nam vào top 3 và top 10 thế giới về cố định băng rộng.

Thời gian tới, Viettel tiếp tục đẩy mạnh phát triển hạ tầng viễn thông với mục tiêu đến năm 2030 phủ sóng 5G trên toàn quốc và sẵn sàng cung cấp dịch vụ internet cáp quang tốc độ Gigabit đến mỗi hộ gia đình.
Không chỉ dẫn đầu trong nước, Viettel còn đóng vai trò then chốt trong kết nối Việt Nam với thế giới thông qua 5 tuyến cáp quang biển quốc tế với tổng dung lượng khoảng 64 Tbps và đang vận chuyển khoảng 60% thị phần kết nối data quốc tế. Các tuyến này kết nối trực tiếp Việt Nam với các trung tâm kỹ thuật số quan trọng của châu Á, châu Âu và châu Mỹ. Đặc biệt Viettel đang phấn đấu xây dựng hạ tầng tuyến cáp quang biển Việt Nam đi Singapore.
Không chỉ dẫn đầu trong lĩnh vực viễn thông, Viettel còn tiên phong xây dựng hạ tầng số quốc gia với 15 trung tâm dữ liệu đạt chuẩn quốc tế, quy mô trên 11.000 rack. Trong năm 2025, Viettel đã khởi công 3 trung tâm dữ liệu tại Hòa Lạc, An Khánh ở Hà Nội, Tân Phú Trung (TPHCM). Viettel cũng đặt ra mục tiêu đến năm 2030 phấn đấu mở rộng lên khoảng 24 trung tâm dữ liệu với tổng công suất khoảng 560 MW.
Bên cạnh đó, Viettel cũng hợp tác với NVIDIA triển khai hạ tầng trung tâm dữ liệu tính toán quy mô lớn, ứng dụng các máy chủ hiệu năng cao với khoảng hơn 6.000 card GPU. Đây cũng là nền tảng quan trọng để phát triển trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn và các dịch vụ số cho thế hệ mới.
Về phát triển khoa học công nghệ, Viettel đặt mục tiêu đến năm 2030 làm chủ toàn bộ khâu thiết kế, sản xuất các sản phẩm chip phục vụ cho quốc phòng, an ninh; đồng thời phát triển một số loại chip chuyên dụng thế hệ mới có tính đột phá như chip trí tuệ nhân tạo và chip IoT. Song song với mục tiêu này, Viettel sẽ đưa vào vận hành nhà máy sản xuất bán dẫn công nghệ cao, từng bước tham gia sâu vào chuỗi giá trị bán dẫn, góp phần nâng cao năng lực tự chủ công nghệ cao và đảm bảo an ninh, chủ quyền số quốc gia.
Từ những mục tiêu và định hướng như trên, Viettel đề xuất và kiến nghị một số nội dung:
Thứ nhất, theo Nghị quyết 57/NQ-TW thì mục tiêu đến năm 2030 là nâng tỉ lệ chi nghiên cứu và phát triển R&D lên mức 2% GDP, tương đương khoảng 9 tỷ USD mỗi năm. Viettel kiến nghị Chính phủ sớm ban hành các hướng dẫn cụ thể nhằm đảm bảo việc phân bổ, triển khai và sử dụng hiệu quả nguồn ngân sách này. Trong đó cần tập trung ưu tiên cho các chương trình, dự án nghiên cứu công nghệ có vai trò nền tảng, bao trùm, các hoạt động lan tỏa lớn như công nghiệp bán dẫn, công nghệ vệ tinh tầm thấp, các công nghệ lưỡng dụng phục vụ cho quốc phòng, an ninh và phát triển kinh tế.
Thứ hai, về cơ chế tiếp cận và chuyển giao công nghệ tiên tiến ở nước ngoài, Viettel đề xuất nghiên cứu triển khai các cơ chế đặc biệt trong việc tiếp cận, nghiên cứu và mua các công nghệ tiên tiến, công nghệ lõi của nước ngoài. Từ kinh nghiệm thực tiễn, Viettel nhận thấy một số vướng mắc lớn hiện nay là việc đánh giá và xác định giá trị các công nghệ mang tính bí mật, độc quyền, khó tham chiếu và so sánh trên thị trường.
Do đó, Viettel kiến nghị Chính phủ và các bộ, ban, ngành sớm ban hành hướng dẫn về nguyên tắc, phương pháp đánh giá và xác định giá trị công nghệ trong quá trình chuyển giao, tạo hành lang pháp lý rõ ràng, minh bạch để các doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư, tiếp nhận, làm chủ các công nghệ của nước ngoài.
Thứ ba, về hình thành các quỹ đầu tư phát triển công nghiệp chiến lược, theo Nghị quyết 57 về giải pháp hình thành các quỹ đầu tư phát triển công nghiệp chiến lược, ưu tiên đầu tư cho các lĩnh vực then chốt như quốc phòng, không gian, năng lượng, trí tuệ nhân tạo, thông tin tín hiệu đường sắt. Viettel kiến nghị Chính phủ sớm triển khai việc hình thành và ban hành cơ chế vận hành quỹ để kịp thời triển khai các nhiệm vụ trọng tâm đặt ra trong chiến lược quốc gia về phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.

