Tập đoàn Copenhagen Infrastructure Partners (CIP) của Đan Mạch, một trong những ông lớn toàn cầu về năng lượng tái tạo, mong muốn hỗ trợ Việt Nam xây dựng dự án điện gió ngoài khơi quy mô lớn đầu tiên và tạo dựng nền tảng để Việt Nam phát triển một ngành công nghiệp điện gió ngoài khơi độc lập, tự chủ về an ninh năng lượng, ông Stuart Livesey, đại diện Tập đoàn CIP khẳng định khi trả lời phỏng vấn.
CIP đã hoạt động ở Việt Nam từ lâu, khi mà các chính sách về điện gió ngoài khơi ở Việt Nam chưa rõ ràng. Tại sao CIP lại kiên định với việc đầu tư ở Việt Nam như vậy?
CIP đã vào Việt Nam từ năm 2019 khi Việt Nam có các dự định khởi tạo dự án điện gió ngoài khơi. Khi đó, Việt Nam muốn khẳng định với thế giới mong muốn phát triển lĩnh vực này.
Việt Nam có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển điện gió ngoài khơi. Tốc độ gió ở vùng biển Việt Nam lớn hơn nhiều so với nhiều nơi khác ở châu Á. Cường độ gió đủ mạnh để có thể khai thác quanh năm là tiền đề để phát triển ngành này.
Bên cạnh đó, phần lớn vùng nước dọc bờ biển Việt Nam khá nông nên có thể xây dựng các công trình trực tiếp xuống đáy biển với chi phí hợp lý, không phức tạp và tốn kém như các công trình nổi trên mặt nước.
Ông đánh giá ra sao về ngành này tại Việt Nam?
Tôi tin rằng sẽ có nhu cầu lớn về điện gió ngoài khơi ở Việt Nam khi nhu cầu điện ngày càng tăng để phục vụ dân số 100 triệu người và các ngành công nghiệp, đặc biệt là các ngành có nhu cầu sử dụng năng lượng có nguồn gốc trong nước.
Không ít doanh nghiệp FDI tiêu thụ nhiều điện tại Việt Nam, như Samsung, Nike, Foxconn, các trung tâm dữ liệu, đang tích cực tìm kiếm các nguồn năng lượng xanh, và còn rất nhiều “đại bàng” khác sắp tới sẽ đến Việt Nam. Những "đại bàng" này sẽ chỉ xuất hiện khi nguồn năng lượng xanh sẵn có và ổn định.
.png)
Ông Stuart Livesey, đại diện Tập đoàn CIP tại Việt Nam
Ngoài ra, việc mua bán điện trực tiếp (DPPA) sẽ tạo động lực lớn cho ngành điện gió ngoài khơi. Nhiều doanh nghiệp trong nước và nước ngoài có nhu cầu điện xanh. CIP và các đối tác trong tương lai sẵn sàng đàm phán DPPA với họ.
Trong khi đó, thỏa thuận mua bán điện với EVN sẽ có những điểm khác biệt. Các hợp đồng mua bán điện của EVN đối với các nhà máy điện năng lượng tái tạo cần được cải thiện để tăng khả năng huy động nguồn vốn lớn từ các tổ chức tín dụng quốc tế.
Từ góc độ an ninh năng lượng, một phần không nhỏ năng lượng tại Việt Nam phụ thuộc vào nguồn cung nhiên liệu nhập khẩu, như than, dầu, khí đốt dễ bị ảnh hưởng bởi thị trường quốc tế. Khi ngày càng tự chủ về năng lượng, Việt Nam sẽ ở vị trí rất thuận lợi để phát triển bền vững và tự lực, đồng thời cân đối chi phí hiệu quả hơn. Đây là chìa khóa để giải quyết bài toán tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam.
Hiện tại mọi thứ đang bắt đầu đi vào đúng quỹ đạo khi Luật Điện lực (sửa đổi) được thông qua vào tháng 11/2024, và Nghị định 58 vừa được ban hành ngày 3/3.
Tôi thật sự hy vọng rằng năm 2025 sẽ có những bước tiến lớn và chuyển động mạnh mẽ trong lĩnh vực điện gió ngoài khơi.
Nghị định 58/2025 quy định chi tiết một số điều của Luật Điện lực về phát triển điện năng lượng tái tạo đã cởi mở hơn rất nhiều với nhà đầu tư nước ngoài, như yêu cầu phần vốn. Việc “cởi trói” này sẽ giúp ích như nào?
Tôi hiểu Việt Nam muốn kiểm soát đầu tư nước ngoài chặt chẽ hơn vì các yếu tố liên quan đến tài chính và quản lý rủi ro. Việc quy định phần vốn tối thiểu 15% sẽ tránh được việc các nhà phát triển thiếu kinh nghiệm và năng lực chỉ đóng góp vốn nhỏ nhất có thể để được tham gia dự án.
Chính các nhà đầu tư này, nếu được cấp phép, sẽ chiếm giữ các khu vực phù hợp để phát triển dự án không cho những nhà đầu tư khác khảo sát, gây ra sự chậm trễ cho dự án.
Các công ty nước ngoài muốn thực hiện các dự án lớn, trị giá khoảng 4-5 tỷ USD cho mỗi GW, đều cần cơ chế kiểm soát rủi ro. Để kiểm soát rủi ro thì họ cần sở hữu một tỷ lệ cổ phần hợp lý để các quyết định được ra hiệu quả và nhanh chóng.
Việt Nam có mong muốn doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là PVN và EVN, triển khai các dự án đầu tiên và hai ông lớn này phải nắm đa số cổ phần trong dự án. Điều này rất quan trọng vì đây là bước đầu tiên khởi tạo một ngành công nghiệp lớn.
Về lâu dài, điều quan trọng là thu hút được đầu tư vào ngành điện gió ngoài khơi không chỉ riêng từ các doanh nghiệp nhà nước như EVN và PVN. “Rủi ro chia sẻ, lợi ích hài hòa” là hợp lý. Doanh nghiệp nước ngoài không nên tới Việt Nam chỉ để thực hiện dự án, thu lời rồi rời đi.
CIP nhìn nhận Việt Nam là một đối tác dài hạn và mong muốn được hợp tác cùng các doanh nghiệp trong nước để xây dựng ngành công nghiệp điện gió ngoài khơi từ các bước đầu tiên, hướng tới một ngành công nghiệp độc lập và tự chủ.
Nghị định yêu cầu các dự án phải được quyết định hoặc chấp thuận chủ trương đầu tư trước ngày 1/1/2031 để nhận một số ưu đãi. Mốc thời gian 2031 này có hợp lý không, thưa ông?
Việc quy định rằng các dự án phải được quyết định hoặc chấp thuận chủ trương vào cuối năm 2030 hoặc 2031 là hoàn toàn khả thi, nếu quy trình được đơn giản hóa và rõ ràng.
Vấn đề là làm sao để các trang trại điện gió này đi vào hoạt động. Các trang trại điện gió ngoài khơi thường mất khoảng 7 đến 8 năm để hoàn tất từ giai đoạn phát triển ban đầu, xây dựng đến vận hành. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn chưa bắt đầu hành trình này.
Về suất đầu tư khoảng 4-5 tỷ USD mỗi GW, CIP dự báo suất đầu tư điện gió ngoài khơi sẽ giảm trong vài năm tới và các dự án được thực hiện trong và sau 2030 sẽ được hưởng lợi từ điều này.
Thế giới đang chuyển mình theo xu hướng phát triển điện xanh, và điện gió ngoài khơi là một trong những nguồn điện xanh ưu việt nhất. Hiện tại, xu hướng này làm cho chuỗi cung ứng các thiết bị quan trọng như tàu lắp đặt, tuabin gió, cáp biển điện áp cao và trạm biến áp ngoài khơi đều quá tải. Theo thời gian, giá sẽ giảm trở lại khi chuỗi cung ứng đủ đáp ứng được nhu cầu.
Ngoài ra, Việt Nam đang sở hữu một chuỗi cung ứng mạnh cho ngành điện gió ngoài khơi với nhiều kinh nghiệm xuất khẩu thiết bị sang Đài Loan (Trung Quốc), Hàn Quốc và Hoa Kỳ. Đáng tiếc là bản thân Việt Nam lại chưa có các dự án điện gió ngoài khơi để sử dụng được chính các thiết bị được sản xuất trong nước.
Công ty con của PVN là PTSC M&C đang sản xuất trạm biến áp ngoài khơi và PTSC đang sản xuất chân đế trụ điện gió. Còn CS Wind của Hàn Quốc đang sản xuất turbine với cơ sở sản xuất toàn cầu lớn nhất tại Việt Nam. Trên thực tế, Việt Nam là nơi lý tưởng để trở thành trung tâm chuỗi cung ứng điện gió ngoài khơi cho khu vực Châu Á - Thái Bình Dương.
CIP sẽ đồng hành cùng doanh nghiệp nội như nào để giúp Việt Nam phát triển ngành này độc lập tự chủ?
CIP mong muốn hợp tác cùng doanh nghiệp trong nước để đảm bảo kết hợp thế mạnh của mỗi bên bên khi thực hiện các dự án có uy tín và mang lại lợi ích cho cả hai.
CIP có chuyên môn về phát triển, thiết kế, mua sắm trang thiết bị, lắp đặt, vận hành và quản lý rủi ro tổng thể, trong khi các doanh nghiệp trong nước có kiến thức về quy trình cấp phép, xây dựng và cho thuê đất tại địa phương, kết nối lưới điện và tương tác với các bên liên quan như ngành vận tải biển, ngành thủy sản, quốc phòng và an ninh.
Tôi có niềm tin vững chắc với doanh nghiệp trong nước. Tháng 3 năm 2024, Petrovietnam và CIP đã ký biên bản ghi nhớ hợp tác nghiên cứu phát triển điện gió ngoài khơi và CIP rất hy vọng sẽ cụ thể hóa hợp tác bằng việc cùng nhau triển khai một dự án ở Việt Nam. Chúng tôi cam kết hỗ trợ các mục tiêu xanh của Việt Nam cùng nhu cầu về an ninh năng lượng và độc lập năng lượng.
Nghị định cũng có điều khoản về sản lượng điện hợp đồng tối thiểu dài hạn (bao tiêu sản phẩm) là 80% nhưng không quá 15 năm, trừ khi có thỏa thuận khác. Theo ông, con số này đã đủ hấp dẫn chưa?
Theo tôi, con số 80% chưa đủ hấp dẫn để thu hút đầu tư. Ví dụ như hiện nay chính phủ đang thảo luận việc bao tiêu 65% sản lượng với điện khí hóa lỏng tự nhiên (LNG), nhưng năng lượng hóa thạch, bao gồm LNG, có thể được dự trữ và sử dụng theo nhu cầu.
Còn việc dự trữ điện gió không dễ dàng nếu không dùng pin lưu trữ hay thủy điện tích năng (vốn rất phức tạp và tốn kém chi phí). Không thể cất trữ gió nên việc không tiêu thụ tối đa sản lượng điện gió là lãng phí.
Tuy nhiên, giống như tất cả các nguồn năng lượng tái tạo khác, điện gió ngoài khơi không ổn định quanh năm, do đó cần có một hệ thống để quản lý sản lượng điện để tránh nguy hiểm cho hệ thống truyền tải. CIP có kinh nghiệm làm việc với đơn vị vận hành hệ thống truyền tải (như EVN tại Việt Nam) để đảm bảo điều này với các thỏa thuận mua bán hợp lý.
CIP cũng cho rằng con số 15 năm là chưa đủ thời gian cho sản lượng điện theo hợp đồng. Kể cả khi bao tiêu sản phẩm là 100% thì khoảng thời gian phù hợp nên là 20 năm, vì Việt Nam là thị trường mới và có nhiều điều chưa rõ ràng.
Ngược lại, việc có hợp đồng sản lượng điện với ưu đãi quá mức, giống như trường hợp điện mặt trời trước đây của Việt Nam đã gây ra nhiều vấn đề, như vượt quá công suất được phê duyệt gần 20 lần. Với các dự án điện gió ngoài khơi có quy mô năng lượng lớn tính bằng GW, Chính phủ phải đóng vai trò chủ chốt để quy hoạch.
Xin cảm ơn ông!