Bức tranh tín dụng cuối năm 2024: Nợ vay của nhiều doanh nghiệp đứng trước nguy cơ nhảy nhóm trong khi bộ đệm dự phòng của các ngân hàng bị thu hẹp

Lê Sáng | 10:50 08/08/2024

Kết quả kinh doanh quý 2/2024 của các ngân hàng cho thấy, dù lợi nhuận vẫn đi lên nhưng nợ xấu vẫn đang “ủ bệnh” và dự báo tăng trong bối cảnh lãi suất huy động tăng và nhiều doanh nghiệp, đặc biệt nhóm bất động sản vẫn khó khăn.

Bức tranh tín dụng cuối năm 2024: Nợ vay của nhiều doanh nghiệp đứng trước nguy cơ nhảy nhóm trong khi bộ đệm dự phòng của các ngân hàng bị thu hẹp

Ngân hàng báo lãi nhưng nợ xấu cũng lên theo

Tính đến cuối quý II/2024, nợ xấu bao gồm nợ rủi ro tiềm ẩn, nợ bán cho VAMC… đã tăng và ở mức 6,9%, theo số liệu của Phó Thống đốc NHNN Đào Minh Tú công bố.

Tại báo cáo tài chính quý II của nhóm ngân hàng có vốn Nhà nước, Vietcombank - ngân hàng tiếp tục giữ ngôi vương lợi nhuận 6 tháng đầu năm 2024 và liên tục giữ mức trích lập dự phòng bao phủ nợ xấu cao nhất hệ thống, cũng ghi nhận có tình trạng nợ xấu tăng.

Theo đó, đến cuối tháng 6/2024, tổng nợ xấu nội bảng của Vietcombank là 16.446 tỷ đồng, tăng 23,1% so với đầu năm nay. Tỷ lệ nợ xấu/cho vay của ngân hàng tăng lên 1,2%, so với 1,05% hồi đầu năm nay. Tỷ lệ bao phủ nợ xấu của Vietcombank giảm nhẹ xuống còn 212%, từ mức 230% hồi đầu năm 2024.

Trong khi đó, với VietinBank, kết thúc quý 2/2024, Vietinbank báo lãi ròng tăng 2,76% so với cùng kỳ 2023, đạt 5.409,3 tỷ đồng dù ghi nhận lỗ từ chứng khoán đầu tư 33,5 tỷ đồng và nợ xấu nhóm 4 tăng 185%. Theo đó, kết thúc quý 2/2024, nợ xấu nhóm 4 (nợ nghi ngờ, phải trích lập dự phòng theo Thông tư 11 ở mức 50%) đã tăng mạnh 185% so với đầu năm.

Cụ thể, tại ngày 30/6/2024, nợ xấu nhóm 4 của Vietinbank ở mức 13.345 tỷ đồng, tăng mạnh so với mức 4.721,2 tỷ đồng tại thời điểm kết thúc năm 2023.

Bên cạnh đó, kết thúc quý 2/2024, nợ dưới tiêu chuẩn (nợ nhóm 3) của Vietinbank cũng tăng 33,3% từ mức 2.058,4 tỷ đồng (31/12/2023) lên 3.344 tỷ đồng. Trong khi đó, nợ cần chú ý (nợ nhóm 2) giảm nhẹ từ mức 22.829 tỷ đồng (31/12/2023) về mức 22.628,8 tỷ đồng.

Trong khi đó, BIDV cũng có tổng nợ xấu 28.687 tỷ đồng, tăng 28% so với đầu năm nay; tỷ lệ nợ xấu tăng từ 1,26% đầu năm 2024 lên mức 1,52%.

Ở nhóm ngân hàng thương mại cổ phần tư nhân, một số ngân hàng có tăng trưởng lợi nhuận hoặc không và kể cả tăng trưởng tín dụng tích cực hoặc chậm hơn so với ngành trong 6 tháng đầu năm 2024, cũng ghi nhận nợ xấu tăng.

Tình trạng trên xảy ra với cả các nhà băng có tầm ảnh hưởng ở top đầu với quy mô dư nợ lớn như VPBank (đứng top đầu hệ thống về số dư nợ hơn 31 nghìn tỷ đồng, nợ xấu hợp nhất gồm FE Credit hơn 5%), TCB, ACB, MSB, VIB,…, đến những nhà băng quy mô nhỏ (không tính NCB) như Vietbank, BaoViet Bank, Saigonbank….

Tại Ngân hàng TMCP Quốc tế (VIB), 6 tháng đầu năm 2024, VIB ghi nhận 3.684,1 tỷ đồng lãi ròng nhưng nợ có khả năng mất vốn (nhóm 5) cũng tăng mạnh 91,3%, từ 2.198,1 tỷ đồng lên 4.205,5 tỷ đồng.

Tại Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB), Lũy kế 6 tháng đầu năm, lợi nhuận trước thuế của ACB đạt hơn 10.490 tỷ đồng, tăng 5,5% so với 6 tháng năm ngoái. Theo tài liệu ĐHĐCĐ thường niên 2024, ACB đặt mục tiêu lợi nhuận trước thuế 22.000 tỷ đồng, tăng 10% so với năm trước.

Tuy nhiên, tại thời điểm cuối tháng 6/2024, tổng nợ xấu của ACB tăng lên 8.121 tỷ đồng, trong đó khoản nợ có khả năng mất vốn tăng tới 41% so với hồi đầu năm, lên 5.525 tỷ đồng. Kéo theo tỷ lệ nợ xấu/dư nợ vay tại ACB tăng từ 1,22% hồi đầu năm lên 1,5%. Trong đó, tỷ lệ nợ xấu mảng bán lẻ là 1,31% (tăng 0,27 điểm %). Tỷ lệ nợ xấu của mảng doanh nghiệp là 1,47% (tăng 0,29 điểm % so với năm 2023). Tỷ lệ nợ xấu mảng cho vay bất động sản là 1,79% (tăng 0,4 điểm % so với năm 2023).

Nợ xấu có xu hướng tăng

Theo Phó Thống đốc NHNN Đào Minh Tú, nợ xấu ghi nhận tăng như một hệ quả của quá trình từ COVID-19 cho đến hậu dịch và khó khăn chung của nền kinh tế, không phải là quá trình mới phát sinh hay do khả năng kiểm soát chất lượng tín dụng kém của hệ thống ngân hàng.

Trên thực tế, dù nợ xấu vẫn trong xu hướng tăng nhưng theo các chuyên gia hiện chưa được thể hiện hoàn toàn trên BCTC của các ngân hàng khi các khoản nợ “có nguy vơ” vẫn đang được cho phép cơ cấu lại nợ theo Thông tư 02/2023/TT-NHNN, hiện đang được kéo dài hết năm theo Thông tư 06/2024/TT-NHNN).

Các chuyên gia đánh giá, trong thời gian tới mục tiêu đưa nợ xấu giảm trong nửa cuối năm 2024, đặc biệt là về dưới 3% trong 2025 sẽ gặp phải nhiều thách thức khi bối cảnh kinh tế còn nhiều khó khăn và đặc biệt là khi các thông tư 02, 06 đang cho phép cơ cấu nợ sẽ hết hiệu lực vào cuối năm 2024 và có thể không được gia hạn.

Theo đó, có 3 nhóm nguy cơ có thế kéo tăng nợ xấu của các ngân hàng.

Nguy cơ thứ nhất đến từ bối cảnh kinh tế vẫn còn khó khăn, nhất xu hướng lãi suất huy động tăng có thể dẫn đến tăng lãi suất cho vay.

“Nợ xấu vẫn là một vấn đề cần lưu tâm khi bộ đệm dự phòng của các ngân hàng đã bị thu hẹp đáng kể, trong khi Thông tư 02/2023/TT-NHNN sẽ hết hiệu lực vào cuối năm 2024 có thể làm cho nhiều khách hàng bị nhảy nhóm nợ, khiến lãi suất cho vay phải được điều chỉnh hợp lý để cân đối với rủi ro của khách hàng”, ông Trần Đức Anh, Giám đốc Kinh tế vĩ mô và Chiến lược thị trường KBSV nhận định.

Nhóm nguy cơ thứ hai đến từ tình trạng khó khăn của các doanh nghiệp, đặc biệt là khối bất động sản có nhiều doanh nghiệp lỗ nặng, gặp rủi ro pháp lý và thậm chí có nguy cơ bị mở thủ tục phá sản…, như DLG, QCG, LDG, NVL, HBC... đang làm dấy lên lo ngại nợ vay ngân hàng của nhiều doanh nghiệp bất động sản nhảy nhóm.

Bên cạnh đó, việc thanh lý các dự án còn vướng mắc pháp lý của các doanh nghiệp vay sẽ không thuận lợi, khiến khả năng thu hồi nợ của các ngân hàng suy giảm. Diễn biến này cũng được cho là tác động 2 chiều đến xu hướng giá thanh lý tiếp tục giảm, cũng như giảm cơ hội giao dịch hiệu quả để xử lý nợ trên thị trường mua bán nợ, giảm giá tài sản thế chấp đảm bảo khoản vay hay trái phiếu làm tăng rủi ro nghĩa vụ trả nợ chéo.

Nhóm nguy cơ thứ ba đến từ việc các ngân hàng trong diện yếu kém chuyển giao bắt buộc và kiểm soát đặc biệt vẫn đang mong đợi bước tiến đến đích xử lý đầu tiên trên thị trường (theo mục tiêu là chỉ còn 4 tháng nữa trong 2024). Trong khi đó, như với trường hợp SCB có thể cần thêm thời gian để xử lý và sẽ có nguy cơ kéo dài thời gian hoàn thành đề án "Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021-2025".

Bài liên quan

(0) Bình luận
Bức tranh tín dụng cuối năm 2024: Nợ vay của nhiều doanh nghiệp đứng trước nguy cơ nhảy nhóm trong khi bộ đệm dự phòng của các ngân hàng bị thu hẹp
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO