TS. Phạm Thế Anh: Chính sách tiền tệ không phải “đũa thần” tăng trưởng

Hải Sơn | 01:36 08/09/2025

Chuyên gia Phạm Thế Anh nhấn mạnh rằng để đạt được mục tiêu tăng trưởng cao và bền vững trong dài hạn, đặc biệt là tham vọng trở thành nước thu nhập cao vào năm 2045, Việt Nam cần phải có những định hướng và điều chỉnh về vai trò của chính sách tiền tệ và tài khóa.

TS. Phạm Thế Anh: Chính sách tiền tệ không phải “đũa thần” tăng trưởng
Theo TS. Phạm Thế Anh, tốc độ tăng cung tiền nên đi sau và phù hợp với tốc độ tăng trưởng GDP. (Ảnh minh hoạ).

Đây là một trong những nội dung bài tham luận của TS. Phạm Thế Anh, Khoa Kinh tế học, Đại học Kinh tế Quốc dân, tại Toạ đàm tham vấn ý kiến chuyên gia về tình hình kinh tế - xã hội của Ủy ban Kinh tế Tài chính của Quốc hội diễn ra sáng 5/9/2025.

Chính sách tiền tệ nhiệm vụ trọng tâm là ổn định

Theo quan điểm của chuyên gia Phạm Thế Anh, chính sách tiền tệ cần được định vị rõ ràng với mục tiêu trọng tâm là kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền và bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, thay vì chạy theo mục tiêu tăng trưởng cao.

“Trong điều kiện bình thường, việc điều tiết cung tiền cần được thực hiện theo nguyên tắc thích ứng với tăng trưởng kinh tế, tức là tốc độ tăng cung tiền nên đi sau và phù hợp với tốc độ tăng trưởng GDP, chứ không phải nới lỏng cung tiền một cách chủ động để kích thích tăng trưởng”, TS. Phạm Thế Anh lưu ý.

Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, không một quốc gia nào có thể đạt được tốc độ tăng trưởng cao trong thời gian dài chỉ nhờ mở rộng tiền tệ. Việc mở rộng tiền tệ liên tục trong thời gian dài, vượt quá xa tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, sẽ luôn tạo ra sức ép gia tăng mọi loại giá cả, từ tiền công, tiền lương, giá cả hàng hóa tiêu dùng, cho đến ngoại tệ và giá nhà đất. Điều này khiến nguồn lực của nền kinh tế không đi vào khu vực sản xuất thực, làm gia tăng chênh lệch giàu nghèo và khiến hệ thống ngân hàng cũng như doanh nghiệp khó huy động được nguồn vốn dài hạn cho sản xuất.

Thay vào đó, chính sách tiền tệ cần được điều hành theo hướng nghịch chu kỳ kinh tế. Hiện các nước trong khu vực ASEAN-5 thường điều hành cung tiền theo hướng nghịch chu kỳ, ví dụ như tỷ lệ cung tiền/GDP khá ổn định hoặc giảm nhẹ khi kinh tế tăng trưởng tốt, nhưng tăng mạnh khi đối mặt với khủng hoảng như COVID-19. Điều này giúp các quốc gia tạo ra dư địa chính sách khi cần can thiệp mạnh để hỗ trợ nền kinh tế. Ngược lại, tỷ lệ này của Việt Nam luôn tăng đều và khá cao trong tất cả các năm (trừ năm 2011 do phải chống lạm phát).

Dư địa chính sách tiền tệ đã cạn hẹp cho mục tiêu tăng trưởng

Chuyên gia Phạm Thế Anh cảnh báo rằng dư địa chính sách tiền tệ để kích thích tăng trưởng trong khi vẫn giữ được ổn định kinh tế vĩ mô hiện đang rất hạn chế.

Tỷ lệ cung tiền/GDP và tín dụng/GDP ở mức rất cao. Mặc dù GDP đã được điều chỉnh tăng nhiều lần, tỷ lệ M2/GDP của Việt Nam đã vượt lên trên so với các nước trong khu vực ASEAN và hầu hết các nước châu Á khác (ngoại trừ Trung Quốc) kể từ năm 2016. Tỷ lệ M2/GDP và tín dụng/GDP tính đến cuối năm 2024 ước đạt khoảng 156% và 136%. Tốc độ tăng cung tiền và tín dụng rất cao so với tăng trưởng GDP tiềm ẩn rủi ro lạm phát, đặc biệt là bong bóng giá tài sản (bất động sản).

Lãi suất thực thấp thể hiện ở việc chênh lệch giữa lãi suất huy động và tỷ lệ lạm phát trung bình chỉ khoảng 2,2% trong giai đoạn 2015-2019 và giảm còn 1,3% trong giai đoạn 2020-2024. Lãi suất thực khá thấp này phản ánh dư địa chính sách tiền tệ bị hạn chế.

Bên cạnh đó, dự trữ ngoại hối giảm sút và áp lực tỷ giá. Kể từ năm 2023, lãi suất chính sách của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ đang neo ở mức cao hơn lãi suất chính sách của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Điều này đã khiến ngoại tệ chảy ra, dự trữ ngoại hối giảm sút và gây sức ép mất giá đồng nội tệ. Tình trạng này hàm ý khả năng hạ lãi suất thị trường là khá khó khăn ngay cả khi Ngân hàng Nhà nước cố gắng hạ các mức lãi suất điều hành.

Ngoài ra, chỉ số tổng dư nợ tín dụng/GDP của Việt Nam tăng vọt lên tới gần 140% vào cuối năm 2024, cao nhất trong ASEAN-5. Sự gia tăng này có thể do hiệu quả sử dụng tín dụng đi xuống và một phần dòng tín dụng tìm đến các kênh đầu cơ tài sản, thay vì sản xuất.

Chính sách tài khóa: Động lực cho tăng trưởng dài hạn

Trong bối cảnh dư địa tiền tệ hạn chế, chuyên gia Phạm Thế Anh khẳng định vai trò thúc đẩy tăng trưởng nhanh thuộc về chính sách tài khóa và cải cách cơ cấu. Mục tiêu cao nhất của chính sách tài khóa phải là thúc đẩy tăng trưởng trong dài hạn và đảm bảo tính bền vững của nợ công.

Để chính sách tiền tệ thực sự trở thành công cụ bình ổn vĩ mô hiệu quả, chuyên gia Phạm Thế Anh đề xuất các giải pháp sau:

Thứ nhất, Ngân hàng Nhà nước cần tập trung vào mục tiêu trọng tâm là kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền và bảo đảm ổn định vĩ mô.

Thứ hai, kiểm soát tăng trưởng cung tiền ở mức hợp lý, dao động trong khoảng 5-8%/năm, để tránh tạo ra các cú sốc lạm phát và bong bóng bất động sản.

Thứ ba, Ngân hàng Nhà nước cần có sự độc lập và chủ động hơn trong điều hành, giảm các can thiệp hành chính và tăng cường các chính sách cẩn trọng kinh tế vĩ mô. Các chính sách cần được thực hiện theo quy tắc, minh bạch và dễ dự đoán để khuyến khích đầu tư dài hạn thay vì đầu cơ.

Thứ tư, chỉ nới lỏng hoặc dỡ bỏ trần tín dụng cho các ngân hàng đáp ứng đủ chuẩn an toàn vốn và quản trị rủi ro, đồng thời xây dựng hệ thống giám sát tự động, kịp thời và minh bạch. Cần tiếp tục đẩy nhanh tiến độ áp dụng các chuẩn mực quốc tế như Basel II và xử lý nợ xấu hiệu quả, tránh nguy cơ gia tăng trở lại.

Như vậy, với những hạn chế và rủi ro hiện hữu, việc lạm dụng mở rộng tiền tệ để kích thích đầu tư có thể gây ra lạm phát và bong bóng giá tài sản, tạo áp lực lên tỷ giá hối đoái, khiến dòng vốn không đi vào sản xuất và làm suy yếu ổn định kinh tế vĩ mô.

Việt Nam cần một chính sách tiền tệ thận trọng, minh bạch, tập trung vào ổn định vĩ mô để tạo nền tảng vững chắc cho chính sách tài khóa và cải cách cơ cấu phát huy tối đa vai trò thúc đẩy tăng trưởng cao và bền vững trong dài hạn.

Bài liên quan

(0) Bình luận
TS. Phạm Thế Anh: Chính sách tiền tệ không phải “đũa thần” tăng trưởng
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO