Giám đốc Hệ thống Y tế Vinmec: Việt Nam đang làm chủ 1 công nghệ “không có đối thủ ở Đông Nam Á, tốc độ nhanh hơn cả Mỹ”

Đinh Linh | 18:02 03/12/2025

Công nghệ in 3D cá thể hoá đang tạo ra đột phá trong điều trị các bệnh lý về xương khớp, đặc biệt là ung thư xương tại Việt Nam.

Giám đốc Hệ thống Y tế Vinmec: Việt Nam đang làm chủ 1 công nghệ “không có đối thủ ở Đông Nam Á, tốc độ nhanh hơn cả Mỹ”

Ung thư xương chỉ chiếm khoảng 1% trong các loại bệnh ung thư nhưng lại là “cơn ác mộng” kinh hoàng với người bệnh khi phải đối diện với nguy cơ cắt bỏ chi, ảnh hưởng đến tâm lý và thể chất suốt đời. 

Chia sẻ trong tọa đàm “Bước tiến trong Phát hiện, Chẩn đoán và Điều trị bệnh” thuộc khuôn khổ Tuần lễ Khoa học Công nghệ VinFuture 2025, GS. Trần Trung Dũng - Tổng Giám đốc Hệ Thống Y tế Vinmec cho biết khoảng 30% bệnh nhân có chỉ định cắt cụt do ung thư đã từ chối phẫu thuật điều trị.

ra_01063.jpg
GS. Trần Trung Dũng - người tiên phong trong việc ứng dụng các kỹ thuật phẫu thuật tiên tiến và công nghệ y học 3D tại Việt Nam

Điều này đã thôi thúc các bác sĩ Vinmec tìm ra giải pháp tái tạo xương và phục hồi chức năng vận động cho bệnh nhân. Đưa công nghệ in 3D cá thể hoá vào phẫu thuật xương chính là câu trả lời, mở ra cánh cửa mới trong điều trị bệnh xương khớp và chấn thương tại Việt Nam.

Gặp trở ngại trong việc sử dụng khung xương in 3D từ nước ngoài, Vinmec đã thành lập trung tâm in 3D để chủ động tái tạo xương và tối ưu các ca phẫu thuật. 1.000 ca bệnh đã được hỗ trợ, đem đến hy vọng “hồi sinh” cả cuộc đời cho rất nhiều bệnh nhân cả trong và ngoài nước. 

Bước tiến vượt bậc trong điều trị ung thư xương tại Việt Nam

Trước khi triển khai được công nghệ in 3D, điều trị ung thư xương tại Việt Nam diễn ra ra sao thưa bác sĩ?

Ung thư xương được xếp vào nhóm ung thư hiếm. Nếu nhìn vào các báo cáo về mặt ung thư, các bạn sẽ không nhìn thấy ung thư xương vì nó sẽ nằm chung trong nhóm ung thư không phân loại. 

Tỷ lệ người bị ung thư xương chỉ khoảng 1-2%, nên việc điều trị không có sự tập trung. Bệnh nhân ung thư xương có thể khám ở khoa Nhi, khoa Cơ xương khớp, phẫu thuật ở bệnh viện Bạch Mai, Việt Đức hoặc tại bệnh viện tỉnh. Do đó, chúng tôi không có nhiều dữ liệu để thực hiện nghiên cứu chuyên sâu.

Ung thư xương thường gặp ở nhóm thanh thiếu niên vốn chưa có nhận thức đầy đủ như người trưởng thành. Mỗi năm Việt Nam có khoảng 200 ca ung thư xương mới, chủ yếu ở trẻ em và một phần ở tuổi trung niên. Nhiều bệnh nhân tìm đến bác sĩ khi tình trạng bệnh đã ở giai đoạn cuối, phải đối diện với nguy cơ cắt cụt chi. 

Ứng dụng công nghệ in 3D cá thể hoá đã mang lại những thay đổi nào trong việc điều trị cho bệnh nhân? 

Công nghệ in 3D mang đến giải pháp phẫu thuật cho bệnh nhân mà trước đây các bác sĩ chúng tôi không làm được. Ví dụ như ung thư xương chậu, bệnh nhân không thể mổ vì có nguy cơ tàn tật vĩnh viễn. 

Đến nay, các bác sĩ Vinmec đã thực hiện được ca phẫu thuật thay thế hoàn toàn phần xương bị tổn thương bằng vật liệu in 3D cá thể hoá. Sau 2 năm, bệnh nhân đã phục hồi chức năng vận động và không gặp biến chứng đáng kể. Nhờ đó, nâng cao chất lượng cuộc sống sau phẫu thuật cho người bệnh.

Có trường hợp bệnh nhi ung thư xương mới 7 tuổi phải đối diện với nguy cơ cắt bỏ chân, chúng tôi đã tiến hành tái cấu trúc chính xác cấu trúc xương đùi để bé có thể đi lại bình thường sau này.

Dù vậy, công nghệ 3D cũng chỉ là một phần trong toàn bộ quá trình điều trị. Để nâng cao chất lượng điều trị ung thư, các bác sĩ cần phối hợp nhiều công nghệ và xây dựng ngân hàng dữ liệu phục vụ nghiên cứu.

untitled(2).jpg
Bệnh nhân này được thay toàn bộ xương đùi nhân tạo bằng kim loại in 3D thiết kế riêng, đánh dấu lần đầu tiên công nghệ này được ứng dụng cho bệnh nhi nhỏ tuổi

Phương pháp tổ chức “độc nhất” giúp Vinmec vượt trội khu vực

Trung tâm in 3D của Vinmec có gì khác biệt hơn so với những mô hình đã có trên thế giới? 

Hiện mô hình phòng lab (phòng nghiên cứu) in 3D của chúng tôi được đặt tại bệnh viện. Nhóm thiết kế gồm các bác sĩ và kỹ sư có thể làm việc trực tiếp cùng nhau. Việc này giúp rút ngắn thời gian, tối ưu hóa được mức độ chính xác của thiết kế.

Thậm chí, khi thực hiện phẫu thuật, các kỹ sư có thể tham gia vào phòng mổ để xem các bác sĩ thực hiện kỹ thuật như thế nào, cần điều chỉnh gì để rút kinh nghiệm lần sau. Ngược lại, các bác sĩ cũng có thể sang phòng lab để triển khai các hoạt động vận hành máy in.

Đó là một sự khác biệt hoàn toàn so với các mô hình công nghệ in 3D trên thế giới. Tất cả đều hướng đến mục tiêu tạo ra sản phẩm tốt nhất, mang lại một giải pháp phẫu thuật tốt nhất để đạt hiệu quả về mặt giải phẫu, từ đó nâng cao về mặt chức năng và chất lượng cuộc sống của người bệnh.

Liệu mô hình này đủ sức cạnh với các nước trong khu vực và trên thế giới? 

Với cách làm như trên, tôi nghĩ rằng mô hình này có thể coi là hàng đầu thế giới, kể cả so với Mỹ.

Ở các nơi khác, các lab công nghệ in 3D chỉ hợp tác với bác sĩ và bệnh viện. Như vậy thời gian thiết kế chắc chắn sẽ kéo dài và có độ trễ. 

Tôi đã đại diện nhóm nghiên cứu đi báo cáo ở rất nhiều quốc gia về cách làm của Việt Nam. Mọi người hoàn toàn ngạc nhiên khi chúng ta có thể làm được những sản phẩm đẹp và nhanh đến như vậy. 

Thực tế, mổ ung thư chỉ cần chậm 1 tháng là tổn thương thay đổi ngay. Với công nghệ này, tôi khẳng định chúng ta không có đối thủ trong vực Đông Nam Á. Thậm chí thời gian sản xuất cho giải pháp tương đương ở Mỹ cũng chậm hơn so với Việt Nam. Đó chính là nhờ cách thức tổ chức của chúng ta có sự liên kết chặt chẽ.

Với sự vượt trội đó, chúng ta có thể hy vọng sẽ cung cấp được các dịch vụ cho những trung tâm y tế hàng đầu thế giới? 

Điều này hoàn toàn có thể. Tuy nhiên hiện tại, chúng tôi ưu tiên cho những bệnh nhân người Việt Nam trước. Với mạng lưới của Vinmec và VinUni, chúng tôi đang mở rộng công nghệ này đến các bệnh viện tỉnh chứ không chỉ bệnh viện trung ương. Hiện tại, 4-5 bệnh viện cấp tỉnh đã bắt đầu sử dụng các sản phẩm này.

Thêm vào đó, câu chuyện vươn tầm quốc tế không chỉ là trách nhiệm của y tế đơn thuần, không chỉ là trách nhiệm của Vinmec mà có thể coi là trách nhiệm của cả đất nước chúng ta. Chúng ta phải khẳng định vị thế mình trên trường quốc tế. 

Trong hành trình này, Vinmec có thuận lợi hơn. Đó là có các chiến lược rõ ràng từ của tập đoàn Vingroup. Dự kiến Vinmec sẽ vươn ra khu vực trước.

Tương lai chúng tôi sẽ mở 3 bệnh viện ở các nước trong khu vực Đông Nam Á. Đây chính là cơ hội để đưa các sản phẩm như này và nhiều sản phẩm y tế của các công ty trong nước hợp tác với Vinmec ra thị trường khu vực.

la_06190.jpg
GS. Trần Trung Dũng giới thiệu về công nghệ in xương 3D có mặt tại Vinmec

Ứng dụng AI góp phần giải bài toán chi phí cho bệnh nhân

Trong phiên tọa đàm, bác sĩ đã chia sẻ về vấn đề chi phí mà người bệnh phải chi trả cho công nghệ này là rất cao. Liệu có giải pháp nào để tối ưu? 

Đây là bài toán khó. Thậm chí kể cả các nước phát triển trên thế giới, bệnh nhân cũng không thể tự chi trả được bởi vì chi phí quá lớn. Hiện chúng tôi có một số giải pháp và đang tiến hành thực hiện. 

Vì sản phẩm này in ra chỉ dùng được cho đúng bệnh nhân đấy thôi. Nếu không dùng bệnh nhân đấy thì không dùng được cho bệnh nhân khác. Nếu một lần in chỉ in cho đúng 1 người chi phí phải trả quá cao. 

Để tối ưu, chúng tôi tính toán phải làm sao để 1 lần in phải cho ra nhiều sản phẩm. Thực tế đó hỏi thời gian thiết kế phải nhanh, buộc phải ứng dụng các công nghệ khác để hỗ trợ. 

Ví dụ, một kỹ sư cần 2-7 ngày để thiết kế một sản phẩm tùy theo mức độ khó dễ. Nhưng nếu có sự AI, thời gian thiết kế sẽ giảm xuống chỉ còn 2 giờ. Thậm chí mẫu cơ bản chỉ cần 1 giờ. 

Thứ hai, chúng tôi phải tạo vòng tròn kết nối. Trong cùng một trung tâm, nhiều nhóm ở nhiều nơi làm việc cùng nhau. Khi có thiết kế, chúng ta tập hợp lại và in 10-20 mẫu cùng một lần. Đó chính là một cách để giảm chi phí cho người bệnh. 

Hiện nhóm công nghệ về 3D trong y tế cùng các chuyên gia, được Bộ Y tế mời tham gia đóng góp xây dựng các tiêu chuẩn cho các sản phẩm công nghệ 3D. Khi các quy định đó được thông qua, một bước tiến tiếp theo là khả năng bảo hiểm y tế sẽ chi trả cho sản phẩm in 3D này.  

Hiện bảo hiểm y tế chỉ chi trả cho các sản phẩm in công nghiệp như các khớp, xương in hàng loạt. Nhưng với sản phẩm in 3D này thì chưa có hành lang đầy đủ nên bảo hiểm y tế chưa thể chi trả. Đây chính là một cơ hội rất lớn, khi hoàn chỉnh các hành lang pháp lý từ phía Bộ Y tế. Khi đó chúng ta có thể nghĩ đến việc bảo hiểm y tế sẽ chi trả một phần, giúp chi phí trở về cái mức hợp lý. 

Tóm lại để có thể mà đạt được chi phí hợp lý cho sản phẩm này, chúng ta cần sự chung tay của nhiều các bộ ban ngành khác nhau từ cơ quan quản lý nhà nước đến những người làm chuyên môn, thậm chí là sự vào cuộc của doanh nghiệp cộng đồng, các mạnh thường quân và xã hội. Mục đích là để bệnh nhân có thể thụ hưởng một giải pháp ngang tầm các nước phát triển. 

ra_01036.jpg

Bác sĩ có thể chia sẻ cụ thể về bài toán chi phí in 3D hiện nay? 

Với sản phẩm như tôi vừa trình bày, nếu điều trị ở Mỹ hay châu Âu, người bệnh phải chi trả 30.000-60.000 USD (khoảng 791 triệu đồng - 1,5 tỷ đồng). Chúng ta có thể hiểu chi phí ở Việt Nam cũng tương đương như thế với 1 sản phẩm. Đây là con số rất lớn so với khả năng chi trả của đa số bệnh nhân ở Việt Nam.

Tuy nhiên, nếu chúng ta in 10 sản phẩm thì chi phí sẽ giảm xuống. Khoản tốn chi phí cao nhất là vận hành thiết bị. Một lần in kéo dài khoảng 24h. Nếu một lượt in 24 tiếng đồng hồ mà in 1 sản phẩm thì chắc chắn đắt. Nhưng nếu in 10 sản phẩm thì giá thành có thể hạ xuống 5 - 7 lần

Hiện tại, ở Việt Nam, các bệnh nhân đang được điều trị dựa trên quỹ từ thiện. Bệnh nhân không phải trả bất kỳ khoản tiền nào. 

Phổ cập hoá công nghệ tiên tiến, tiếp tục tạo ra đột phá cho y học Việt

Công nghệ tiên tiến, bài toán chi phí đang dần được tối ưu. Kỳ vọng của bác sĩ về kỹ thuật này trong tương lai là gì?  

Trong tương lai, chúng tôi hi vọng có thể phổ cập hóa công nghệ in 3D này rộng rãi, giúp tất cả bệnh nhân có thể thụ hưởng giải pháp điều trị với mức giá hợp lý hoặc không mất tiền với sự hỗ trợ chi trả tối đa từ phía bảo hiểm.

Ước tính các bác sĩ Việt phẫu thuật khoảng 100 ca mắc ung thư xương/năm. Trong đó có những trường hợp đặc biệt không thể sử dụng sản phẩm có sẵn, như khớp háng tổn thương phức tạp phải in riêng. Những ca như vậy chiếm khoảng 20%, tương đương 20 ca mỗi năm, còn trường hợp mà dùng sản phẩm có sẵn thì chi phí hợp lý hơn.

untitled(1).jpg
Vinmec đã phẫu thuật thành công thay toàn bộ xương đùi cho một bệnh nhi nhỏ tuổi bằng công nghệ in 3D

Kỹ thuật in 3D này liệu có được nghiên cứu để phát triển, ứng dụng in vật liệu cho những bộ phận phức tạp hơn trong tương lai?

Hoàn toàn có thể. Một trong những xu hướng y tế nổi bật hiện là bioprinting – công nghệ in sinh học. Các sản phẩm in sinh học thường gồm hai phần: phần cấu trúc và phần chức năng.

Phần cấu trúc là những bộ phận không có chức năng sinh học, chẳng hạn như sụn khớp hay các cấu trúc xương. Trong khi đó, phần chức năng hướng đến việc tạo ra mô có chức năng, ví dụ như mô tuyến giáp hoặc mô tuyến tụy. Hiện nay, nhiều quốc gia đã bắt đầu thử nghiệm các mô chức năng này.

Câu chuyện đặt ra là việc in mô cấu trúc chắc chắn sẽ là xu hướng khả thi và có thể đạt được sớm hơn. Đặc biệt, trong bối cảnh các bệnh lý thoái hóa gia tăng khi dân số già đi, nhu cầu thay thế những bộ phận bị hỏng hóc ngày càng lớn. Điều này cũng thúc đẩy sự chuyển dịch từ việc sử dụng vật liệu nhân tạo sang vật liệu tự thân trong điều trị.

Cảm ơn bác sĩ đã chia sẻ!




 

 

 

   


(0) Bình luận
Giám đốc Hệ thống Y tế Vinmec: Việt Nam đang làm chủ 1 công nghệ “không có đối thủ ở Đông Nam Á, tốc độ nhanh hơn cả Mỹ”
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO