Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu và trong nước đang có những yếu tố tích cực dần lên, thị trường chứng khoán đã có sự phục hồi mạnh mẽ liên trên ngưỡng tâm lý 1.200 điểm và bước vào cùng cản mới. Thanh khoản thị trường cũng đã tăng lên quy mô trung bình trên 20.000 tỷ đồng/phiên. Tuy nhiên, nếu so với giai đoạn trước thì thị trường đang ở một vùng định giá cao hơn, điều đó đồng nghĩa với các rủi ro cũng sẽ tăng lên.
Tại Talk show Phố Tài Chính (The Finance Street Talk Show) trên VTV8, bà Nguyễn Thị Phương Lam, Giám đốc Trung tâm Phân tích, Công ty CP Chứng khoán Rồng Việt đánh giá, sau một thời gian tăng khá mạnh, thị trường có thể sẽ đối mặt với những phiên điều chỉnh, nhưng sự điều chỉnh sẽ không diễn ra trên diện rộng mà sẽ có sự phân hóa giữa các nhóm ngành hay các cổ phiếu.
BTV Mùi Khánh Ly: Kinh tế giới quý II/2023 đã dần tích cực hơn, trong nước, loạt chính sách hỗ trợ đang được đẩy mạnh, theo bà, các chính sách đã ngấm vào nền kinh tế?
Bà Nguyễn Thị Phương Lam, Giám đốc Trung tâm Phân tích, Công ty CP Chứng khoán Rồng Việt
Có thể nói trong nửa đầu năm, Chính phủ đã đưa ra hàng loạt giải pháp nhằm hỗ trợ phục hồi và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế như là bốn lần giảm lãi suất điều hành, hỗ trợ thanh khoản cho thị trường tiền tệ, đồng thời sửa đổi, bổ sung một số quy định tháo gỡ cho thị trường trái phiếu doanh nghiệp. Nhờ các biện pháp này, lãi suất huy động niêm yết của các ngân hàng thương mại đã giảm mạnh so với thời điểm cuối quý 3 và quý 4/2022. Song song với đó, một số dự án hạ tầng giao thông được đẩy nhanh tiến độ, giúp tỷ lệ giải ngân đầu tư công đã có sự cải thiện so với cùng kỳ các năm trước. Mặc dù vậy, xét về mức độ phục hồi của các ngành nghề kinh doanh thì chưa có sự đồng đều. Những ngành có kết quả kinh doanh cải thiện đa số là các nhóm ngành hưởng lợi trực tiếp từ chính sách tiền tệ nới lỏng, hoặc những nhóm ngành từng bị ảnh hưởng nặng bởi chi phí đầu vào cao trong các năm trước. Trong khi đó, những nhóm ngành liên quan đến niềm tin và chi tiêu tiêu dùng, cũng như phụ thuộc vào hoạt động xuất khẩu vẫn đang gặp khá nhiều khó khăn.
Tôi kỳ vọng trong nửa cuối năm, do độ trễ của chính sách, lãi suất cho vay thực tế trong nền kinh tế sẽ giảm nhiều hơn, đồng thời cùng với sự hồi phục của kinh tế thế giới, hiệu ứng lan tỏa của việc đẩy mạnh đầu tư công, và các gói tài khóa hỗ trợ tiêu dùng (như tăng lương cơ bản, giảm, giãn các loại thuế phí...) sẽ có hiệu quả thực tiễn hơn.
Thị trường trong thời gian qua đã có sự tăng trưởng mạnh mẽ, dòng tiền gia tăng trên thị trường với thanh khoản tỷ USD/phiên. Tuy nhiên, bên cạnh tâm lý lạc quan, nhiều ý kiến cho rằng định giá của thị trường hiện đang ở mức cao, bà đánh giá sao về điều này?
Sau giai đoạn Covid thì thị trường chứng khoán Việt Nam đã bước lên một tầm quy mô mới, với sự nhận biết nhiều hơn và tham gia mạnh mẽ của nhà đầu tư cá nhân. Năm 2023, nhờ các nút thắt tâm lý được cởi bỏ sau khi Chính phủ cho thấy quan điểm rõ ràng hơn trong định hướng hỗ trợ phục hồi và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, và với chính sách tiền tệ nới lỏng hơn, dòng tiền của nhà đầu tư cá nhân đã được kích hoạt một lần nữa, giúp thị trường trải qua nhiều tuần liên tiếp tăng điểm khả quan. Sau các đợt tăng điểm này, định giá P/E hiện tại của thị trường đang tiệm cận ngưỡng trên 15 lần, cao hơn đáng kể so với mức khoảng 10 – 12 lần vào đầu năm 2023, do vậy, chúng tôi cho rằng sự e ngại của nhà đầu tư là hợp lý, đặc biệt trong bối cảnh kết quả kinh doanh nửa đầu năm không mấy khả quan.
Ở một khía cạnh khác thì có thể thấy nhà đầu tư đang trả một mức P/E cao cho thị trường chủ yếu do kỳ vọng về sự phục hồi trong nửa cuối năm 2023 và 2024. Về điều này chúng tôi ước tính lợi nhuận của một nhóm doanh nghiệp chiếm có tổng vốn hóa bằng hơn 50% tổng vốn hóa toàn thị trường cho thấy, lợi nhuận lũy kế bốn quý liên tiếp tính đến quý IV/2023 sẽ cao hơn khoảng 11% so với lợi nhuận lũy kế bốn quý liên tiếp tính đến quý II/2023. Và nếu tăng trưởng lợi nhuận nửa cuối năm đạt kỳ vọng như trên, thì mức định giá hiện tại đang trả cho thị trường vẫn ở mức hợp lý, chưa phải quá cao để e ngại.
Tuy nhiên, đó là nhìn về P/E chung của toàn thị trường. Nếu nhìn P/E của từng nhóm ngành thì sẽ thấy có sự phân hóa khá rõ rệt với một số ngành đang được giao dịch ở mức P/E rất cao so với mức bình quân 3 năm gần nhất, và một số ngành có trọng số lớn trong rổ VN-Index đang được giao dịch ở mức P/E tương đối thấp so với mức bình quân 3 năm. Do vậy, tôi cho rằng để có góc nhìn chính xác thì nên xem xét P/E của từng nhóm ngành hoặc cổ phiếu, hơn là P/E chung của thị trường.
Thị trường đã tăng khá mạnh, trong bối cảnh các doanh nghiệp mới chỉ kỳ vọng là vượt qua đáy tăng trưởng và như vậy thị trường hiện đang phải đối mặt với những rủi ro nào?
Xét trên bình diện chung toàn thị trường thì mức P/E hiện không phải quá cao nếu nhìn trong dài hạn. Tuy nhiên, trong ngắn hạn, cụ thể là tháng 8 và đầu tháng 9, thị trường thường rơi vào giai đoạn trống thông tin, do đó, khả năng điều chỉnh là có thể xảy ra, nhất là sau nhiều tuần liên tiếp tăng điểm tích cực và chỉ dựa vào kỳ vọng tương lai hơn là kết quả kinh doanh thực tế trong 6 tháng đầu năm của doanh nghiệp. Tuy nhiên, như đã nói ở trên, chúng tôi nhận thấy có một sự phân hóa khá rõ rệt về P/E giữa các nhóm ngành, trong đó một số nhóm ngành được hưởng lợi trực tiếp từ chính sách tiền tệ, hoặc hưởng lợi gián tiếp sau các biện pháp tài khóa và kỳ vọng vào sự phục hồi của kinh tế thế giới, đang là những ngành được trả một mức P/E cao và ngược lại. Do vậy, chúng tôi cho rằng sự điều chỉnh này sẽ không diễn ra trên diện rộng mà chỉ ở những nhóm ngành đã tăng nhanh trong thời gian ngắn khiến định giá không còn hấp dẫn. Dòng tiền sẽ luân phiên tìm đến những nhóm ngành có tăng trưởng lợi nhuận và P/E còn hợp lý để giải ngân, giúp cân bằng lại sự điều chỉnh do chốt lời ở các nhóm ngành khác.
Vậy nhà đầu tư nên quản trị vốn đầu tư của mình sao cho phù hợp, theo bà?
Tôi cho rằng trước hết nhà đầu tư cần xác định được khả năng chấp nhận rủi ro và cũng như nguồn vốn đầu tư là vốn ngắn hay dài hạn. Trong tương quan với thời hạn đầu tư đã xác định như vậy, khả năng duy trì lợi nhuận của doanh nghiệp trong cùng khoảng thời gian như trên là khả quan hay không. Nếu những điều nhà đầu tư kỳ vọng về doanh nghiệp khi đầu tư vào cổ phiếu được công bố, thì tôi cho rằng đó là thời điểm nên cân nhắc hiện thực hóa lợi nhuận.
Ngược lại, nếu nguồn vốn đầu tư là nguồn vốn tích lũy dài hạn, nhà đầu tư có thể cần đánh giá khả năng duy trì lợi nhuận của doanh nghiệp trong tương lai, và kiểm chứng qua từng kỳ báo cáo kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Việc bán ra chỉ nên thực hiện nếu trong nhiều kỳ liên tiếp mà doanh nghiệp không đạt được những kế hoạch hay mục tiêu mà ban lãnh đạo đã đặt ra.
Đối việc lựa chọn doanh nghiệp để đầu tư thì nên chọn doanh nghiệp như thế nào vào thời điểm này, theo bà?
Với việc dòng tiền nhà đầu tư cá nhân tham gia thị trường mạnh mẽ trở lại cũng sẽ có nhiều câu chuyện làm chất xúc tác cho các nhóm ngành hay cổ phiếu chẳng hạn như câu chuyện đầu tư công với việc đẩy mạnh các dự án cơ sở hạ tầng và các nhóm ngành liên quan như xây dựng, vật liệu xây dựng, lãi suất giảm và các ngành có độ nhạy cao với lãi suất, chính sách tài khóa kích cầu tiêu dùng và các nhóm ngành liên quan tiêu dùng, hay biến động kinh tế thế giới và các ngành liên quan xuất khẩu. Rõ ràng diễn biến thị trường trong giai đoạn vừa qua đang theo cách như vậy, và tôi cho rằng kịch bản này có thể sẽ tiếp diễn trong thời gian còn lại của năm. Tuy nhiên, không phải kỳ vọng lúc nào cũng sẽ sớm được hiện thực hóa. Do đó, nhà đầu tư giao dịch cổ phiếu theo các dòng câu chuyện như trên cũng cần nhận thức rằng khi giá đã tăng quá nhanh so với những thay đổi về cơ bản về nội tại của doanh nghiệp, các nhóm cổ phiếu đó cũng sẽ điều chỉnh rất nhanh, đặc biệt trong những giai đoạn thị trường đi vào vùng trống thông tin hoặc đối diện thông tin không tích cực.
Vì vậy, nhà đầu tư cần linh hoạt và xác định trước vùng giá chấp nhận mua và mức sinh lời kỳ vọng. Mức sinh lời kỳ vọng cũng nên được xác định có cơ sở và một cách dễ tham khảo nhất là từ các báo cáo phân tích của các công ty chứng khoán, dự báo về lợi nhuận trong năm của doanh nghiệp, so sánh mức P/E hiện tại so với quá khứ và so với ngành, thì với mức lợi nhuận như trên, giá hợp lý của cổ phiếu mức nào.