Chuyên gia quốc tế chỉ ra thời điểm Việt Nam sẽ vượt Thái Lan, trở thành nền kinh tế lớn thứ 32 trên thế giới

Hoàng Nguyễn | 09:21 14/10/2025

Từ một nền kinh tế lạc hậu, hiện Việt Nam đã vươn lên lọt vào nhóm 35 nền kinh tế hàng đầu, có quy mô thương mại trong top 20 quốc gia trên thế giới, là mắt xích quan trọng trong 16 Hiệp định thương mại tự do (FTA) gắn kết với 60 nền kinh tế chủ chốt ở khu vực và toàn cầu. Vậy khi nào GDP Việt Nam sẽ lọt nhóm 32 nền kinh tế lớn nhất thế giới?

Chuyên gia quốc tế chỉ ra thời điểm Việt Nam sẽ vượt Thái Lan, trở thành nền kinh tế lớn thứ 32 trên thế giới

Theo dữ liệu từ Quỹ tiền tiền tệ quốc tế (IMF), Việt Nam đã mất 37 năm để quy mô GDP tăng gấp 10 lần, đạt 400 tỷ USD từ mức khoảng 43 tỷ USD hồi năm 1986.

Cụ thể, quy mô GDP Việt Nam theo giá hiện hành vào năm 1986 ghi nhận ở mức 43 tỷ USD. Đến năm 2008, con số này đã tăng lên mức 125 tỷ USD, cao gấp 3 lần so với thời điểm 1986. Có thể thấy, Việt Nam phải mất 23 năm để quy mô kinh tế lần đầu tiên cán mốc 100 tỷ USD.

Trong giai đoạn tiếp theo, Việt Nam chỉ mất 15 năm để quy mô kinh tế tăng từ mức 100 tỷ USD lên mức 400 tỷ USD. Cụ thể, quy mô GDP của Việt Nam đã đạt 408 tỷ USD vào năm 2022 và đạt 476 tỷ USD vào năm 2024. 

Đến năm 2025, theo dự báo của Việt Nam, quy mô kinh tế của quốc gia dự kiến sẽ đạt trên 510 tỷ USD năm 2025, tăng 5 bậc, xếp thứ 32 thế giới và thứ 4 trong khu vực ASEAN. Còn theo số liệu ước tính của IMF, quy mô kinh tế của Việt Nam ước đạt 491 tỷ USD trong năm 2025, xếp thứ 34 trên thế giới, và xếp thứ 5 trong khu vực ASEAN.

Quy mô kinh tế của Việt Nam sẽ vượt Thái Lan sau 4 năm nữa?

Đáng chú ý, các chuyên gia IMF dự báo, đến năm 2029, với quy mô GDP dự kiến đạt 666,5 tỷ USD, Việt Nam sẽ chính thức vượt Thái Lan (với quy mô được dự báo khoảng 616 tỷ USD), trở thành nền kinh tế lớn thứ 4 trong khu vực Đông Nam Á, và lớn thứ 32 trên thế giới, sau các quốc gia như Indonesia (1,92 nghìn tỷ USD), Philippines (695,3 tỷ USD) và Singapore (525,22 tỷ USD).

exp-2025-10-14_02_38_53.png
IMF dự báo, đến năm 2029, với quy mô GDP dự kiến đạt 666,5 tỷ USD, Việt Nam sẽ chính thức vượt Thái Lan trở thành nền kinh tế lớn thứ 32 trên thế giới

Trong một bài viết được đăng tải trên tờ Bangkok Post vào hồi đầu tháng 10, phát biểu quan trọng tại hội thảo thường niên của Hiệp hội Phóng viên Kinh tế, Thủ tướng Anutin Charnvirakul thừa nhận, Thái Lan đã tụt hậu so với Việt Nam, coi đây là cơn ác mộng tồi tệ nhất của ông và lưu ý rằng ông chưa bao giờ hình dung Thái Lan sẽ tăng trưởng chậm hơn các quốc gia khác ở Đông Dương.

"Chúng ta cần phải hợp tác vì điều này không nằm ngoài khả năng của chúng ta. Trước đây, chúng ta là những người dẫn đầu. Với nền tảng vững chắc của ngành công nghiệp và nông nghiệp, cũng như toàn xã hội Thái Lan, tôi tin tưởng chúng ta có thể đạt được tăng trưởng mới khi nền kinh tế Thái Lan vẫn vững mạnh", ông nói. 

Nền kinh tế Thái Lan trước năm 1997 tăng trưởng trung bình 7%, sau đó giảm xuống còn 3% sau năm 1997. Từ năm 2012 đến nay, tăng trưởng không đạt được mức trung bình 2%, chủ yếu do đầu tư thấp. Trước năm 1997, đầu tư chiếm 40% GDP, nhưng sau năm 1997, tỷ lệ này giảm xuống chỉ còn 23%.

Việt Nam đặt mục tiêu thuộc nhóm 30 nền kinh tế hàng đầu thế giới vào năm 2030

Tại Đại hội đại biểu Đảng bộ Chính phủ lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030, Đảng ủy Chính phủ xác định, mục tiêu tổng quát trong nhiệm kỳ tới được xác định là: Giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; kinh tế phát triển nhanh và bền vững; phấn đấu đến năm 2030, là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, có quy mô GDP thuộc nhóm 30 nền kinh tế hàng đầu thế giới, thứ 3 trong ASEAN. 

Còn theo Nghị quyết số 306/NQ-CP về điều chỉnh Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, Về kinh tế, phấn đấu tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân đạt trên 8,0%/năm thời kỳ 2021 - 2030. Đến năm 2030, GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành đạt khoảng 8.500 USD. 

Tỷ trọng trong GDP của khu vực dịch vụ đạt trên 50%, khu vực công nghiệp - xây dựng trên 40%, khu vực nông, lâm, thủy sản dưới 10%. Tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân đạt khoảng 7%/năm thời kỳ 2021 - 2030; trong đó giai đoạn 2026 - 2030 đạt trên 8,5%/năm. Đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng đạt trên 55%.

Phát huy lợi thế của từng vùng kinh tế - xã hội; tập trung phát triển 2 vùng động lực phía Bắc và phía Nam gắn với 2 cực tăng trưởng là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, hành lang kinh tế Bắc - Nam, hành lang kinh tế Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, hành lang kinh tế Mộc Bài - Thành phố Hồ Chí Minh - Biên Hòa - Vũng Tàu với kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, có tốc độ tăng trưởng cao, đóng góp lớn vào phát triển chung của đất nước.

Phát triển mạnh hạ tầng số, hạ tầng dữ liệu tạo nền tảng chuyển đổi số quốc gia, phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số; tỷ trọng kinh tế số đạt khoảng 30% GDP...

Một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong thời kỳ quy hoạch là hình thành cơ bản bộ khung kết cấu hạ tầng quốc gia, tập trung vào hạ tầng giao thông, hạ tầng đô thị, hạ tầng nông thôn, hạ tầng năng lượng, hạ tầng số, hạ tầng văn hóa, xã hội, hạ tầng thủy lợi, bảo vệ môi trường, phòng, chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu

Xác lập mô hình tăng trưởng mới, lấy khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là động lực chính. Ưu tiên phát triển một số ngành, lĩnh vực có tiềm năng, lợi thế và còn dư địa lớn, phù hợp với xu thế chung của thế giới và gắn với không gian phát triển mới

Đồng thời, phát triển các vùng động lực, cực tăng trưởng quốc gia quan trọng để hình thành các đầu tàu dẫn dắt sự phát triển của quốc gia. Lựa chọn một số địa bàn, đô thị, vùng có lợi thế đặc biệt để xây dựng trung tâm kinh tế, tài chính, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt với thể chế, cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội có tính đột phá, có khả năng cạnh tranh quốc tế cao. Đồng thời có cơ chế, chính sách, nguồn lực phù hợp để bảo đảm an sinh xã hội và từng bước phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, khu vực biên giới, hải đảo, góp phần ổn định chính trị, giữ vững quốc phòng, an ninh;

Hình thành và phát triển các hành lang kinh tế theo trục Bắc - Nam, các hành lang kinh tế Đông - Tây, các vành đai kinh tế ven biển; kết nối hiệu quả các cảng biển, cảng hàng không, cửa khẩu quốc tế, đầu mối giao thương lớn, các đô thị, trung tâm kinh tế, cực tăng trưởng; kết nối hiệu quả với các hành lang kinh tế của khu vực và thế giới. Phát triển các vành đai công nghiệp - đô thị - dịch vụ tại các vùng động lực, vùng đô thị lớn; đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả liên kết vùng, khai thác hiệu quả không gian phát triển mới sau sáp nhập, sắp xếp đơn vị hành chính các cấp.


(0) Bình luận
Chuyên gia quốc tế chỉ ra thời điểm Việt Nam sẽ vượt Thái Lan, trở thành nền kinh tế lớn thứ 32 trên thế giới
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO