Tháng 11 năm 1996, một văn bản mang ý nghĩa lịch sử đã ra đời: Nghị định 75/1996/NĐ-CP thành lập Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN). Đó là bước chân đầu tiên, đầy táo bạo của Việt Nam trên hành trình xây dựng một thị trường chứng khoán chuyên nghiệp.
Nhưng từ một văn bản trên giấy đến phiên giao dịch đầu tiên vào năm 2000 là cả một câu chuyện dài, nơi những con người tiên phong phải đối mặt với muôn vàn thử thách: không doanh nghiệp niêm yết, không hệ thống giao dịch, không công nghệ, và gần như không một chút kinh nghiệm nào.

UBCKNN được thành lập vào cuối năm 1996 và bắt đầu đi vào hoạt động từ tháng 4/1997. Đội ngũ ban đầu chỉ vỏn vẹn chưa đầy 70 con người, mang trong mình nhiệt huyết cháy bỏng nhưng hầu như chưa từng chạm tay vào lĩnh vực chứng khoán. Khi ấy, chứng khoán chỉ như một khái niệm xa lạ đến mức sách vở cũng không đủ để soi đường. Nhiều người thậm chí còn băn khoăn: Liệu vận hành một thị trường chứng khoán có làm lệch hướng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa?
Khi được cử đi học hỏi tại các quốc gia phát triển, các cán bộ UBCKNN mới nhận ra một sự thật đáng suy ngẫm: ở hầu hết các nước, thị trường chứng khoán luôn hình thành trước, rồi Nhà nước mới hướng tới việc thiết lập cơ quan quản lý.
Tại Mỹ, thị trường chứng khoán đã sôi động từ lâu, nhưng mãi đến cuộc khủng hoảng 1929-1930, Ủy ban Giao dịch và Chứng khoán Hoa Kỳ (SEC) mới ra đời. Ở Nhật Bản, thị trường chứng khoán Tokyo đã hoạt động từ thế kỷ 19, nhưng cơ quan quản lý chỉ được thành lập sau Thế chiến thứ hai.
Việt Nam thì khác, thị trường chứng khoán truyền thống chưa có từ trước. Một cán bộ cấp cao của UBCKNN cho biết, tại thời điểm thành lập, cơ quan này chỉ là một tổ chức quản lý nhà nước có nhiệm vụ xây dựng TTCK, ngoài ra chưa có gì khác: Không thị trường, không hành lang pháp lý, không máy móc thiết bị, không kỹ thuật giao dịch. Vì vậy, mục tiêu quan trọng được đề ra là chủ động xây dựng thị trường chứng khoán phù hợp với tình hình đất nước bấy giờ.

Để đặt những viên gạch đầu tiên, UBCKNN tập trung vào nhiệm vụ cốt lõi là xây dựng khung pháp lý cho thị trường. Đây là một lĩnh vực hoàn toàn mới, đan xen với các quy định về doanh nghiệp, pháp luật dân sự, hình sự và nhiều khía cạnh khác. Một văn bản quy phạm pháp luật là điều cần thiết để định hình thị trường chứng khoán.
Song song đó, việc thành lập Sở Giao dịch Chứng khoán cũng được cân nhắc kỹ lưỡng, sao cho không tạo ra sự khập khiễng về mặt phát triển, đảm bảo cân bằng giữa hai đầu đất nước. Quyết định cuối cùng được đưa ra là sẽ xây dựng Trung tâm giao dịch tại cả Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, Sở Giao dịch tại Thành phố Hồ Chí Minh sẽ là trung tâm chính, được xây dựng trước với tầm nhìn dài hạn là liên kết hai sàn thành một hệ thống thống nhất, như mô hình được các chuyên gia quốc tế tư vấn.

Xây dựng khung pháp lý là bước đi đầu tiên, nhưng thách thức lớn hơn là tạo ra hàng hóa cho thị trường. Không có cổ phiếu, thị trường chứng khoán chỉ là một ý tưởng trên giấy. Lãnh đạo cấp cao của UBCKNN cho biết, ban đầu các chuyên gia dự kiến đưa công trái trở thành hàng hoá, nhưng công trái thời điểm đó lại không đủ chuẩn để giao dịch thứ cấp.
Thế là một hành trình “đi tìm hàng” được khởi động với hai hướng đi: thí điểm cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước để đưa lên sàn, đồng thời khuyến khích thành lập các công ty cổ phần. Cuối cùng cho đến khi khai trương TTCK cũng chỉ có 2 công ty Nhà nước được cổ phần hoá lên sàn là REE và SACOM.
Bên cạnh khung pháp lý và hàng hoá, hệ thống công nghệ phục vụ giao dịch cũng là một bài toán nan giải. Thời điểm đó, toàn bộ UBCKNN không có lấy một kỹ sư công nghệ thông tin nào và ở Việt Nam cũng chưa có công ty nào có khái niệm về hệ thống giao dịch chứng khoán. Khi ấy, không ai biết lưu ký là gì, kết nối thanh toán với ngân hàng ra sao, hay hạch toán thế nào…
Khi tất cả các công ty công nghệ thông tin trong nước đều “lắc đầu” với bài toán giao dịch, lời giải chợt đến khi đoàn cán bộ của UBCKNN đến gặp Viện trưởng Viện Công nghệ Thông tin – Giáo sư Bạch Hưng Khang nhờ tư vấn. Sau khi nghe trình bày và phân tích tình hình, Giáo sư Khang nói với đoàn: “Đừng tìm ở trong nước nữa. Nếu thực sự muốn có hệ thống giao dịch như vậy thì nên đi mua sẵn hệ thống của nước ngoài hoặc đặt hàng họ làm chứ trong nước giờ không có ai làm được đâu!”.
Lời khuyên ấy đã thay đổi hoàn toàn cách tiếp cận. Một cán bộ trong đoàn đã đề xuất với Chủ tịch UBCKNN lúc đó - chính là TS Lê Văn Châu - phương án nhờ Ngân hàng Nhà nước thu xếp được nguồn tài trợ 15 triệu USD từ một Khoản vay chương trình của Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) để giải quyết nút thắt công nghệ.

Để bồi dưỡng kiến thức về chứng khoán, UBCKNN liên tục cử các đoàn công tác sang các quốc gia có thị trường tài chính phát triển để học hỏi kinh nghiệm. Cuối năm 1997, một đoàn cán bộ được cử sang Sở Giao dịch Chứng khoán New York (NYSE).
Hai cán bộ của UBCKNN có mặt tại sàn NYSE mỗi ngày từ 9 giờ sáng đến 5 giờ chiều để quan sát cách vận hành của thị trường chứng khoán lớn nhất thế giới. Sàn giao dịch khi ấy vẫn sử dụng phiếu lệnh viết tay với màu sắc khác nhau để phân biệt các loại lệnh mua, lệnh bán, lệnh sửa…
Những cánh tay giơ cao ra các ký hiệu lạ lẫm, cộng thêm không khí rất sôi động của sàn khiến 2 cán bộ Việt Nam choáng ngợp. Họ không hiểu ngôn ngữ, không nắm được quy trình, chỉ biết đứng nhìn, quan sát và ghi chép. “Mọi thứ giống như trong phim!”, vị cán bộ tham dự năm đó thuật lại.
Sàn NYSE buổi sáng sạch bóng, nhưng đến cuối ngày mặt sàn phủ đầy một lớp giấy dày, “đi không cẩn thận là trượt chân”. Không muốn bỏ lỡ bất kỳ chi tiết nào, hai cán bộ UBCKNN nhặt những tờ phiếu lệnh vương vãi trên sàn, tối về nhà hì hục phân loại, cho vào một túi đựng rác lớn màu đen và bỏ vào vali mang về nước.
Khi đó, họ cũng không biết “túi rác” đó có thể đem lại lợi ích gì, mà đơn thuần chỉ không muốn bỏ sót điều gì có thể thu thập được từ một thị trường chứng khoán thực sự, ngỡ đâu có thể khai thác được điều gì hữu ích sau này.
Tới giai đoạn xây dựng quy định về giao dịch, UBCKNN phải dự thảo các loại lệnh, quy trình nhận lệnh, khớp lệnh và các mẫu phiếu lệnh. Do chỉ nghiên cứu tài liệu, cũng chưa ai biết giao dịch cổ phiếu thực tế diễn ra thế nào nên mọi việc cứ “quay mòng mòng”.

Khi ấy, một cán bộ từng đi học tập, nghiên cứu tại Mỹ bỗng nhớ ra "túi rác" bên trong là những phiếu lệnh được thu lượm từ sàn NYSE. Ông về nhà tìm lại và mang lên cho Vụ trưởng Vụ Phát triển TTCK khi đó là ông Trần Cao Nguyên xem với hy vọng có thể giúp ích điều gì đó.
Khi ấy, ông Trần Cao Nguyên chỉ mới xem qua, mắt đã sáng rực, và reo lên: “Đây rồi, mẫu phiếu lệnh là đây chứ gì nữa!”. Hoá ra những tờ giấy nhặt nhạnh cuối phiên tại NYSE lại hé lộ cách thức vận hành luồng lệnh của một sàn giao dịch.
Hành động “nhặt rác” ở NYSE mang về Việt Nam có thể coi là biểu tượng đặc trưng cho rất nhiều con người xây dựng TTCK Việt Nam từ những ngày đầu. Họ sẵn sàng học, làm nhiều thứ, từ nhỏ nhất và không chắc chắn về kết quả, nhưng vẫn sẵn lòng, để chung tay xây dựng nên một định chế tài chính đặc biệt chưa từng tồn tại ở Việt Nam.
“Túi rác” từ NYSE ngẫu nhiên trở thành lời giải cho một bài toán ở vào một thời điểm quan trọng, góp phần giúp TTCK Việt Nam thực sự đi vào hoạt động.

Việc xây dựng hạ tầng công nghệ cho TTCK cũng là quá trình gian nan không kém. Việt Nam những năm cuối thập niên 1990 còn quá xa lạ với khái niệm công nghệ thông tin trong ngành chứng khoán. Máy tính cá nhân vẫn là thứ xa xỉ, huống chi là hệ thống phần cứng, phần mềm đủ hiện đại để vận hành một sàn giao dịch.
May mắn thay, Việt Nam nhận được sự hỗ trợ quý báu từ các đối tác quốc tế. Theo lời kể của một lãnh đạo UBCKNN, một cán bộ của UBCKNN lúc đó là người sinh và lớn lên ở Thái Lan, rất hiểu người Thái, đã kiến nghị với Chủ tịch UBCK phương án “xin” phần mềm giao dịch của Sở giao dịch chứng khoán Thái Lan để kịp vận hành TTCK vào năm 2000 theo chỉ đạo của Thủ tướng.
Lúc đó, Ủy ban Chứng khoán và Sở Giao dịch Chứng khoán Thái Lan là một trong những đối tác nhiệt tình giúp đỡ và Việt Nam đã cử nhiều khảo sát và học hỏi cách vận hành thị trường. Và đề nghị “xin” phần mềm giao dịch tưởng chừng như phi lý này được Sở GDCK Thái Lan chấp nhận.
Tuy nhiên, sau khi có phần mềm thì HOSE cũng không thể vận hành nếu thiếu máy chủ. Việc UBCKNN gặp khó khăn khi tìm nguồn tiền mua dàn máy chủ vận hành HOSE nghe rất hài hước vào thời điểm hiện nay, nhưng vào cuối những năm 1990, đó là một thực tế. Khi ấy, vị cán bộ từng sinh ra và lớn lên ở Thái Lan lại tiếp tục kiến nghị Chủ tịch UBCKNN tiếp tục đề nghị phía Thái Lan cung cấp nốt phần cứng cho hệ thống giao dịch. Một lần nữa, vị cán bộ này lại thành công, giúp HOSE có đủ bộ cả “cứng lẫn mềm” cho hệ thống giao dịch.
Nhưng chưa hết. Sau khi đã có phần cứng và phần mềm cho hệ thống giao dịch thì vẫn còn thiếu bảng điện. Thời điểm đó, ông Lê Văn Châu (người đã rời vị trí Chủ tịch UBCKNN và đóng vai trò cố vấn cao cấp) với uy tín quốc tế của mình, đã sang Đài Loan và tìm được tài trợ từ phía bạn, giúp HOSE có được bảng điện tử đã qua sử dụng. Mảnh ghép cuối của hệ thống giao dịch được hoàn tất, giúp TTCK có thể sẵn sàng cho phiên giao dịch đầu tiên.

Thời điểm đó Việt Nam nhận được sự hỗ trợ từ nhiều bạn bè quốc tế. Hàn Quốc có hẳn một dự án trợ giúp kỹ thuật lớn và kéo dài từ năm 1996 đến khoảng 2003 để giúp Việt Nam xây dựng TTCK. Nhiều đoàn cán bộ được cử đi học hỏi tại Hàn quốc, Nhật, Anh, Trung Quốc, Pháp, Đức, Luxembourg và nhiều nơi khác.
Mỗi chuyến đi là một cơ hội để tiếp thu kiến thức, từ cách tổ chức thị trường đến cách quản lý rủi ro. Những mối quan hệ hợp tác này không chỉ giúp Việt Nam xây dựng thị trường mà còn đặt nền móng cho sự phát triển lâu dài.
Những ngày đầu tiên của ngành chứng khoán Việt Nam vô cùng sơ khai, gần như phải xây mọi thứ từ con số 0. Đây cũng chính là lý do năm 1996 thành lập UBCKNN nhưng phải tới 2000 mới có thể vận hành phiên giao dịch đầu tiên. Nhưng điều này cũng không phải là đích đến, mà là khởi đầu.
Sau 25 năm, thị trường chứng khoán Việt Nam tiếp tục phát triển, hiện đã có khoảng 1.700 doanh nghiệp đang giao dịch, tổng giá trị vốn hóa đạt gần 7,6 triệu tỷ đồng. Số tài khoản nhà đầu tư chứng khoán đã chính thức vượt mốc 10 triệu, Việt Nam cũng từng bước xây dựng thị trường phái sinh, thị trường trái phiếu chuyên biệt, và hướng tới mục tiêu nâng hạng lên thị trường mới nổi ngay trong năm nay.
Hành trình ấy, từ những ngày đầu tiên đầy khó khăn đến những thành tựu hôm nay, là minh chứng cho khát vọng và sự kiên trì của những con người dám mơ lớn, dám làm, và dám học hỏi. Họ đã viết nên câu chuyện lịch sử về thị trường chứng khoán Việt Nam, một câu chuyện đầy cảm hứng và tự hào.
Bài: Thái Hoà
Thiết kế: Hải An