- Lần đầu tiên trong lịch sử của Hội nghị khoa học thường niên Hội ghép tạng Việt Nam, có 2 ca mổ thị phạm ghép thận và ghép gan được thực hiện trực tiếp trước hàng trăm chuyên gia, bác sĩ, nhà khoa học đầu ngành trong nước và thế giới. Đây là một bước tiến quan trọng thể hiện năng lực làm chủ kỹ thuật và trình độ chuyên môn vươn tầm quốc tế của các bác sĩ Việt Nam.
Ca phẫu thuật ghép gan được PGS.TS.BS Lê Văn Thành - Phó Tổng Giám đốc Chuyên môn Khối Ngoại, Hệ thống Y tế Vinmec trực tiếp thực hiện thị phạm. Theo thông tin từ Hội Ghép tạng Việt Nam, tính đến tháng 6/2025, đã có 815 ca ghép gan được thực hiện trên cả nước, trong đó PGS.TS Lê Văn Thành đứng sau thành công của gần 400 ca.
Là người tiên phong chuyển giao kỹ thuật ghép gan về nhiều bệnh viện công trên khắp cả nước và khu vực Đông Nam Á, mỗi ca ghép gan với PGS.TS Lê Văn Thành vẫn là cuộc chạy đua “hồi sinh” người bệnh đang cận kề cái chết.

Thưa bác sĩ, ca mổ trực tiếp tại Hội nghị Khoa học thường niên - Hội Ghép tạng Việt Nam lần thứ X có gì thử thách hơn so với các ca mổ thông thường?
Mổ thị phạm phức tạp hơn nhiều so với ca mổ thông thường vì chúng tôi phải trình diễn trước nhiều “khán giả” là đồng nghiệp, chuyên gia. Ngoài việc đảm bảo an toàn cho người cho và nhận tạng, mọi thao tác phải chính xác tuyệt đối, thử thách với ê-kíp mổ là việc không có thời gian chết xuyên suốt quá trình thực hiện. Chúng tôi vừa thao tác mổ, rửa gan, tái tạo mạch máu, vừa tương tác, trả lời câu hỏi của những chuyên gia trong ngành, đòi hỏi sự tập trung cực kỳ cao độ.
Với những ca ghép gan thông thường, phẫu thuật viên chỉ cần cắt một đường mật ở người hiến sống. Tuy nhiên, trong ca mổ thị phạm này, người hiến có biến thể giải phẫu hiếm với hai đường mật, buộc ê-kíp phải tính toán chính xác tuyệt đối để vừa bảo tồn tối đa an toàn cho người hiến, vừa bảo đảm đường mật của mảnh ghép sau khi nối cho người nhận không bị hẹp hoặc rò mật. Đây là một trong những thách thức rất lớn trong ghép gan sống.
Thực hiện thành công ca mổ ghép gan song song với việc liên tục truyền tải thông tin học thuật, tôi cảm thấy tự hào và vinh dự. Thông qua ca mổ này, tôi cũng có cơ hội chia sẻ những kinh nghiệm thực tiễn với các đồng nghiệp trong và ngoài nước.
Kỹ thuật mổ ghép gan từ người hiến sống có khác biệt gì so với nguồn hiến từ người chết não?
Để ghép gan từ người hiến sống, bác sĩ cần đối mặt với một lúc hai áp lực không chỉ đơn thuần về mặt kỹ thuật, đó là đảm bảo an toàn 100% cho người hiến, đồng thời cứu sống được người nhận gan.
.png)
Ca ghép từ người hiến sống sẽ phức tạp hơn vì các bác sĩ cần tiến hành xử lý từ người hiến sau đó chuyển sang người nhận nên thời gian có thể kéo dài gấp đôi, lên đến 7-8 tiếng/ca. Ngoài ra, các phẫu thuật viên cần tiến hành khâu nối các mạch máu, đường mật nhỏ hơn, đòi hỏi về yêu cầu kỹ thuật là cao hơn hẳn so với lại ghép gan từ người chết não.
Hiện nay ở Việt Nam có 9 trung tâm thực hiện được kỹ thuật ghép gan, nhưng chỉ số ít trung tâm làm chủ được kỹ thuật ghép gan từ người sống. Trong đó, Vinmec là hệ thống y tế tư nhân có số lượng ca ghép gan từ người hiến sống đứng thứ 2 cả nước.
Bên cạnh thử thách từ ca mổ ghép gan từ người hiến sống, còn những ca bệnh nào “làm khó” bác sĩ?
Ngoài mổ ghép gan từ người hiến chết não và người cho sống, các bác sĩ tại Vinmec đã làm chủ được kỹ thuật ghép gan từ ghép cấp cứu, ghép gan cho người lớn, trẻ em, ghép gan bất đồng nhóm máu…
Những ca bệnh khó với chúng tôi là những ca suy gan cấp, tức là người bệnh đã rơi vào hôn mê và tình trạng nguy kịch nên chúng tôi phải chạy đua với thời gian từ khâu sàng lọc người hiến và người nhận.
Trường hợp như vậy thường được thực hiện vào buổi đêm, trong khi ban ngày chúng tôi đã thực hiện một ca ghép khác. Dù vậy, các bác sĩ vẫn nhanh chóng tiến hành hội chẩn, hơn 24 tiếng không ngủ để cứu sống người bệnh.
Chúng tôi cũng từng thực hiện ghép gan cho bệnh nhi chỉ khoảng 7-8 tháng tuổi, nặng 5-6kg. Các bệnh nhi này bị teo đường mật bẩm sinh từ trước, đã mổ nối ruột nhưng tình trạng tắc mật vẫn diễn ra, gan không đủ chức năng để chuyển hoá nên phần lớn các cháu đều suy dinh dưỡng.
Những ca như vậy sẽ áp lực hơn rất nhiều, mạch máu và đường mật đều nhỏ hơn so với người trưởng thành. Ê-kíp gồm bác sĩ gây mê, phẫu thuật viên, bác sĩ hồi sức sau mổ phải phối hợp để giảm thiểu biến chứng cũng như giúp các bệnh nhi phục hồi nhanh hơn.
Chúng tôi mong muốn trong tương lai có thể ghép gan cho bệnh nhi dưới 5kg, giảm thời gian bệnh nhân phải chống chọi với bệnh tật và giúp các cháu phát triển bình thường khi lớn lên.
Bác sĩ đánh giá trình độ kỹ thuật ghép gan ở Việt Nam hiện nay đang ở đâu so với thế giới?
Tôi cho rằng kỹ thuật ghép gan Việt Nam đang tiệm cận với các nước tiên tiến trên thế giới, thậm chí phẫu thuật nội soi có thể đánh giá ở trình độ tương đương và vẫn đang phát triển rất nhanh.
Có những trường hợp bệnh nhân dự định ra nước ngoài ghép gan nhưng bác sĩ ở đó lại khuyên họ về nước phẫu thuật. Hiện nay chúng tôi bắt đầu có những bệnh nhân từ Brunei bay sang Việt Nam để ghép gan. Bệnh nhân biết đến chúng tôi từ chính bác sĩ tại nước họ. Sau khi tiếp xúc và trao đổi về mặt chuyên môn, bệnh nhân tin tưởng để điều trị tại Vinmec.
Bên cạnh đó, tỷ lệ sống sau ghép gan tại hệ thống Vinmec đang đạt khoảng 80-85% sau 5 năm, tương đương với các trung tâm ghép gan hàng đầu thế giới trong khi chi phí rẻ hơn so với các nước phát triển. Chúng ta có thể tự hào khi chứng kiến từ giai đoạn người bệnh Việt phải ra nước ngoài điều trị, đến nay đã có những bệnh nhân quốc tế chủ động tìm đến nước ta.
Chúng tôi cũng đang nghiên cứu và từng bước triển khai kỹ thuật “ghép gan theo giai đoạn”. Đây là giải pháp dành cho những trường hợp mảnh gan hiến có thể tích nhỏ hơn nhu cầu của người nhận.
Ở giai đoạn đầu, bác sĩ cắt bỏ phần gan bệnh và ghép tạm phần gan nhỏ. Sau khoảng một tháng, khi phần gan ghép phát triển đạt kích thước cần thiết, phẫu thuật viên sẽ tiến hành ca mổ thứ hai để loại bỏ hoàn toàn phần gan bệnh còn lại. Kỹ thuật này mở rộng đáng kể cơ hội sống cho bệnh nhân thiếu nguồn tạng phù hợp, đặc biệt là trẻ nhỏ và người có thể trạng yếu.
Trong tương lai, chúng tôi đặt mục tiêu thực hiện 50-100 ca ghép gan mỗi năm, tương đương với các trung tâm ghép gan hàng đầu trên thế giới. Đồng thời, các ca ghép được tiến hành hoàn toàn bằng kỹ thuật nội soi và robot hỗ trợ. Robot sẽ hoạt động như “cánh tay nối dài” của phẫu thuật viên, giúp thực hiện các thao tác tinh vi hơn rất nhiều.

Những yếu tố nào giúp giảm chi phí ghép gan tại Việt Nam so với các nước phát triển?
Chi phí ghép gan tại Việt Nam hiện nay được đánh giá ở mức rẻ hơn nhiều so với các nước phát triển như Singapore, Hàn Quốc, Pháp…. Một phần vì chi phí nhân lực y tế ở Việt Nam thấp hơn, nhưng quan trọng hơn cả là việc các bác sĩ tối ưu hoá tất cả các quy trình phẫu thuật, đồng thời ứng dụng kiến thức và kỹ thuật học ở nước ngoài.
Điều này giúp các ca phẫu thuật đảm bảo chất lượng nhưng vẫn có thể đưa viện phí người bệnh phải trả xuống mức thấp nhất. Đối với các bệnh nhân khó khăn, chúng tôi vẫn đang cố gắng tìm giải pháp giúp người bệnh tăng cơ hội tiếp cận phẫu thuật ghép gan thông qua hỗ trợ từ bảo hiểm và các quỹ.
Tối ưu thành công chi phí, vậy còn thách thức nào mà phẫu thuật ghép gan tại Việt Nam vẫn đang phải đối diện?
Đó là vấn đề liên quan đến thiếu tạng hiến. Đây không chỉ là thách thức với Việt Nam mà còn ở rất nhiều nước châu Á, một phần vì quan niệm liên quan đến văn hoá tâm linh “sống toàn thây, chết toàn thây”.
Tết năm ngoái, chúng tôi nhận được nguồn tạng hiến từ một người không may gặp tai nạn ở miền Nam. Gần 30 Tết, toàn bộ ê-kíp ghép gan vẫn khẩn trương thực hiện ca mổ và đưa người hiến về nhà. Gia đình không có bất kỳ yêu cầu, điều kiện gì, chỉ mong cứu sống được nhiều người.
Tôi luôn mong muốn ngày càng nhiều người hiểu rằng trao đi là còn mãi, một người chết não hiến tạng có thể cứu sống 4-6 người. Bên cạnh việc tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người dân về việc hiến tạng nhân đạo, theo tôi, chúng ta cũng cần có thêm những chương trình hỗ trợ cho gia đình người chết não đồng ý hiến tạng để giúp họ vượt qua nỗi đau mất mát, đồng thời cảm thấy an ủi khi biết rằng hành động của người thân sẽ mang lại cơ hội sống cho nhiều người khác.
Những chương trình này có thể bao gồm sự hỗ trợ về mặt tâm lý, tư vấn về pháp lý, và thậm chí là hỗ trợ tài chính cho gia đình trong giai đoạn khó khăn. Đồng thời, cần có những chính sách để đảm bảo quyền lợi cho người hiến tạng và gia đình họ, nhằm tạo ra một môi trường tin tưởng, nhân văn và đầy đủ sự tôn trọng đối với quyết định cao cả này. Thực hiện những bước đi này không chỉ giúp nâng cao ý thức cộng đồng về hiến tạng, mà còn thể hiện trách nhiệm và sự quan tâm của xã hội đối với những người đã ra đi và gia đình của họ.
.png)
Nhìn lại hành trình sự nghiệp, thành tựu nào khiến bác sĩ tự hào nhất?
Trước đây, khi thực hiện ca phẫu thuật ghép gan đầu tiên tôi đã bước sang tuổi 50. Đến nay các bác sĩ trẻ 33 tuổi đã được tiếp xúc kỹ thuật ghép gan và sau khoảng 8 năm, đội ngũ kế cận này có thể thực hiện những ca phẫu thuật mà không cần đến sự có mặt của tôi.
Ở nhiều trung tâm trên cả nước, đội ngũ phẫu thuật viên hiện nay đều rất trẻ. Có thể thấy các bạn tiếp cận kỹ thuật ghép gan nhanh và vững vàng hơn bởi được thừa hưởng nền tảng mà những người đi trước - trong đó có chúng tôi - đã cố gắng xây dựng qua nhiều năm.

Với một chuyên ngành phức tạp như gan mật, bác sĩ làm thế nào để đào tạo thành công đội ngũ kế cận?
Thực tế là con đường sự nghiệp của một bác sĩ không dễ dàng. Thời gian học dài, kiến thức đồ sộ, khối lượng công việc lớn. Để trở thành một bác sĩ giỏi cần tốn nhiều công sức, mất ít nhất 10-15 năm mới có thể thành thạo nghề tương đối.
Ghép gan còn là đỉnh cao của kỹ thuật ghép tạng và y khoa. Trước khi có thể tiến hành phẫu thuật ghép gan, tôi phải sự chuẩn bị khoảng 10 năm, thực hiện hàng nghìn ca cắt gan để nâng cao kiến thức cũng như thành thạo kỹ thuật.
Không phải ai cũng sẵn sàng theo đuổi chuyên ngành bệnh lý phức tạp như gan mật, phẫu thuật tiêu hoá. Thế nhưng tôi vẫn tin rằng sẽ có những bạn trẻ đam mê chinh phục kỹ thuật khó, những bác sĩ luôn nỗ lực với mục tiêu cuối cùng là cứu chữa được người bệnh.
Những trường hợp cần ghép gan thường là bệnh nhân đã ở giai đoạn cuối của các bệnh lý về gan, tức là nếu không can thiệp kịp thời, người bệnh có nguy cơ tử vong rất cao. Nhiệm vụ của người đi trước như chúng tôi không chỉ nằm ở việc đào tạo, mà còn giúp các bác sĩ trẻ nhìn thấy sứ mệnh và giá trị họ mang lại cho những bệnh nhân đang cận kề với “cửa tử”. Chỉ có như vậy mới có thêm những lớp bác sĩ kế cận và thêm nhiều bệnh nhân được cứu sống.
Xin cảm ơn bác sĩ vì những chia sẻ này!
PGS.TS.BS Lê Văn Thành là chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực Ngoại Tiêu hóa – Gan mật – Tụy, hiện đang công tác tại Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Times City, đồng thời đảm nhiệm vai trò Phó Tổng Giám đốc Chuyên môn Khối Ngoại, Hệ thống Y tế Vinmec.
Tốt nghiệp Bác sĩ Đa khoa Học viện Quân y năm 1990, ông tiếp tục theo học Thạc sĩ Y khoa chuyên ngành Ngoại Tiêu hóa (1996) và bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ Y học tại Học viện Quân y năm 2014. Bác sĩ có nhiều năm tu nghiệp và đào tạo chuyên sâu ở nước ngoài, bao gồm nội trú Phẫu thuật Tiêu hóa – Gan mật tại Pháp (2004–2006), đào tạo ghép gan tại Hàn Quốc (2016) và Pháp (2017).
Trước khi công tác tại Vinmec, PGS.TS.BS Lê Văn Thành từng giữ nhiều vị trí quan trọng tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, trong đó có chức vụ Chủ nhiệm Khoa Phẫu thuật Gan – Mật – Tụy, đóng góp tích cực cho sự phát triển của lĩnh vực ghép gan và phẫu thuật tiêu hóa tại Việt Nam.

