w_04.png

FTSE Russell đã chính thức đưa Việt Nam lên nhóm “thị trường mới nổi thứ cấp”. Ông nhìn nhận cột mốc này mang lại ý nghĩa gì cho thị trường vốn Việt Nam sau hơn một thập kỷ chờ đợi?

Ông Nguyễn Quang Thuân: Đây là một bước ngoặt rất quan trọng. Nâng hạng không chỉ là tin vui cho chứng khoán, mà là “thời điểm vàng” để tái cấu trúc toàn bộ thị trường vốn Việt Nam. Hiện chúng tôi có phục vụ thông tin phân tích và đánh giá thị trường cho một số định chế, lớn nhất là từ Anh Quốc và Châu Âu – những nhà đầu tư lần đầu tiên quan tâm đến Việt Nam.

w_06.png

Đó đều là định chế tài chính đầu tư lớn mang tầm quốc gia (sovereign wealth fund), quỹ hưu trí, quỹ tương hỗ lớn với chiến lược đầu tư đa kênh, không chỉ cổ phiếu niêm yết mà họ còn tìm kiếm cơ hội từ kế hoạch IPO doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp nhà nước. Họ cũng mong muốn đầu tư vào các sản phẩm thu nhập cố định như công cụ nợ, trái phiếu doanh nghiệp và tài trợ dự án hạ tầng, nhất là các dự án có yếu tố phát triển xanh, bền vững mà Việt Nam đang tập trung ưu tiên phát triển.

Một số định chế cũng rất quan tâm đến sản phẩm của thị trường tiền tệ, bao gồm các sản phẩm chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu kỳ hạn và chứng khoán đảm bảo bằng tài sản (ABS) gắn với các tài sản có thu nhập ôn định như từ danh mục cho vay nhà ở, thẻ tín dụng hoặc thậm chí từ danh mục dự án hạ tầng tiện ích.

w_08.png

Ngành quản lý quỹ tại Việt Nam hiện vẫn có quy mô khiêm tốn. Theo ông, việc thị trường được nâng hạng sẽ mang lại những cơ hội nào để thúc đẩy sự phát triển của ngành này, qua đó tiến gần hơn tới các mục tiêu mà cơ quan quản lý đã đề ra?

Quyết định 3168/QĐ-BTC phê duyệt Đề án Tái cấu trúc nhà đầu tư và phát triển ngành quỹ đầu tư chứng khoán do Bộ Tài chính ban hành vào 12/9/2025 là một văn bản có tính định hướng quan trọng. Hiện Bộ Tài chính và UBCKNN đang triển khai mạnh mẽ các giải pháp như rà soát, điều chỉnh hạn chế đầu tư và áp dụng quản trị đầu tư theo rủi ro (risk-based capital) theo thông lệ quốc tế.

Bên cạnh tăng nguồn hàng hóa cho các quỹ cổ phiếu, việc hướng đến hình thành các quỹ nợ như quỹ trái phiếu hạ tầng, cơ chế pháp lý cho tài trợ dự án và quỹ bảo lãnh trái phiếu là bước đi đúng đắn. Những giải pháp này không chỉ giúp thu hút gián tiếp vốn quốc tế, mà quan trọng hơn là khai thông thị trường vốn trong nước.

Khi các các sản phẩm của thị trường nợ được hình thành, trái phiếu phát hành qua kênh đại chúng phổ biến hơn và thị trường nợ minh bạch hơn, tôi tin là các công ty quản lý quỹ trong nước cũng sẽ được hưởng lớn. Sự tham gia của định chế tài chính quốc tế lớn không chỉ dừng ở việc mở tài khoản đầu tư trực tiếp, mà còn thúc đẩy mô hình “quỹ trong quỹ”. Khi đó, các công ty quản lý quỹ được cấp phép và giám sát bởi UBCKNN, có chiến lược đầu tư rõ ràng, lịch sử hiệu quả hoạt động hay xếp hạng tốt, uy tín cao và chất lượng đội ngũ chuyên nghiệp sẽ trở thành điểm đến của các định chế đầu tư lớn.

w_10.png

Thực tế tại FiinGroup, chúng tôi đã và đang thực hiện rà soát và đánh giá tìm kiếm cơ hội đầu tư cho nhiều định chế không chỉ nhắm đến các doanh nghiệp niêm yết, mà còn mở rộng sang các doanh nghiệp dự kiến IPO, thương vụ thoái vốn nhà nước và thị trường nợ bao gồm trái phiếu doanh nghiệp, tài chính dự án hạ tầng và hoạt động cho vay đối với các tổ chức tín dụng và doanh nghiệp Việt Nam.

Xu hướng này đang trở nên mạnh hơn và nếu chúng ta không đẩy nhanh tiến trình “hậu nâng hạng” FTSE Russel và tiến tới nâng hạng MSCI, dòng vốn ngoại có thể vẫn chỉ đến từ một số quỹ nhỏ hoặc mang tính ngắn hạn. Yếu tố thuận lợi hiện nay là lãi suất quốc tế Fed Fund Rate giảm và kỳ vọng tiếp tục hạ về quanh mức 3%/năm sang năm 2026.

Từ trước đến nay, Việt Nam chủ yếu thu hút dòng vốn ngoại từ Hàn Quốc, Đài Loan,… và giờ là cơ hội để chúng ta thu hút nguồn vốn từ các khu vực vốn có khẩu vị rủi ro thấp hơn như Mỹ, Châu Âu và Anh Quốc. Nhưng nếu thị trường không gia tăng thêm hàng hóa và đẩy mạnh cải cách, dòng vốn này có thể chỉ dừng lại ở mức quan tâm và nghiên cứu, sau đó sẽ chuyển hướng sang thị trường mới nổi khác.

w_12.png

Tôi cũng kỳ vọng trong thời gian tới, nếu các tập đoàn tài chính hàng đầu như JP Morgan hay Morgan Stanley mở văn phòng tại Việt Nam và xem đây như một trung tâm tài chính của khu vực, đó sẽ là bước tiến rất tuyệt. Một số nước trong khu vực như Malaysia đã làm được điều này và tôi cho rằng Việt Nam nên chủ động tạo điều kiện thuận lợi để thu hút những “đại bàng tài chính” này. Khi họ hiện diện và tham gia sâu hơn vào thị trường quản lý tài sản tại Việt Nam, thay vì chỉ “làm deal to ra quốc tế”, họ sẽ kéo theo làn sóng khách hàng toàn cầu cùng dòng vốn đầu tư có tính dài hạn vào thị trường Việt Nam.

w_14.png

Về mặt vĩ mô và định giá, thị trường Việt Nam hiện có hấp dẫn dòng vốn ngoại không, thưa ông?

Ông Nguyễn Quang Thuân: Sức hấp dẫn hiện nay là rất cao. Việt Nam vẫn là điểm sáng trong khu vực với nền kinh tế tăng trưởng ổn định, môi trường chính trị vững chắc và định giá hấp dẫn một cách tương đối với các thị trường tương đồng có tính cạnh tranh cao với Việt Nam. Theo thống kê của FiinGroup, nếu loại trừ các cổ phiếu tăng đột biến như nhóm Vingroup hay Gelex, hệ số P/E trung bình của thị trường chỉ khoảng 12 lần - thấp hơn đáng kể so với mặt bằng chung của các thị trường mới nổi, trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam lại cao hơn và ít chịu rủi ro bất ổn chính trị.

Vì vậy, dù khối ngoại vẫn đang bán ròng mạnh trong thời gian qua, nhưng tôi tin rằng dòng vốn này sẽ dần được thay thế hoặc bổ sung bởi lớp nhà đầu tư nước ngoài mới, góp phần hình thành một chu kỳ tăng trưởng tiếp theo cho thị trường vốn Việt Nam.

Tuy nhiên, rủi ro về tỷ giá là yếu tố khiến nhiều nhà đầu tư quốc tế cân nhắc. Một số định chế tài chính mà chúng tôi làm việc cùng cho rằng, nếu VND tiếp tục mất giá ở mức 5–10% trong khi Việt Nam chưa có các sản phẩm phòng vệ tỷ giá hiệu quả, thì đây sẽ là rào cản đáng kể cho dòng vốn gián tiếp. Khi đó, các nhà đầu tư buộc phải yêu cầu mức lợi suất cao hơn để bù đắp rủi ro, khiến chi phí vốn của doanh nghiệp Việt Nam trở nên đắt đỏ hơn.

Do đó, tôi thấy rằng chúng ta rất cần thêm các sản phẩm phòng ngừa rủi ro tỷ giá, dịch vụ hedging kỳ hạn dài thay vì chỉ dưới 3 năm như hiện nay. Theo Quyết định 3168 của Bộ Tài chính cũng đã nhấn mạnh việc phát triển dịch vụ này, đồng thời khuyến khích sự tham gia của cả các ngân hàng trong và ngoài nước. Tôi hy vọng các giải pháp này nhận được sự quan tâm của lãnh đạo cấp Chính phủ và sẽ sớm được triển khai trong thời gian tới.

w_16.png

Ngoài ra, mặc dù hệ thống ngân hàng đang ghi nhận tốc độ tăng trưởng tín dụng cao, nhưng bộ đệm vốn lại chưa được củng cố tương xứng, khiến các định chế tài chính quốc tế có xu hướng thận trọng hơn khi đánh giá rủi ro hệ thống. Bên cạnh đó, “hàng hóa” cho nhà đầu tư ngoại vẫn hạn chế khi nhiều doanh nghiệp đã kín room, trong khi tỷ lệ sở hữu của Nhà nước và cổ đông nội bộ chiếm tỷ trọng cao. Thực tế, khối ngoại hiện nắm khoảng 17% tổng vốn hóa thị trường, muốn nâng tỷ lệ này lên 25-30% theo tôi là rất khó. Do vậy, bên cạnh giải pháp nới room ngoại, điều quan trọng hơn là cần gia tăng nguồn cung doanh nghiệp IPO và niêm yết mới với chất lượng tốt, nền tảng quản trị minh bạch và định giá hợp lý để thu hút dòng vốn quốc tế một cách bền vững hơn.

Nhiều chuyên gia nhận định, nếu tận dụng tốt “thời điểm vàng” thị trường chứng khoán có thể tăng trưởng mạnh trong vài năm tới. Quan điểm của ông ra sao?

Hiện thanh khoản thị trường vẫn duy trì ở mức cao và đây là điều rất đang mừng. Tuy nhiên, điều quan không kém là vai trò huy động vốn cổ phần mới trên TTCK các năm trước còn rất khiêm tốn, thì hiện đang có xu hướng cải thiện rất mạnh mẽ. Theo thống kê của FiinGroup, tổng giá trị huy động vốn cổ phần trên TTCK trong năm nay chắc chắn sẽ đạt kỷ lục chưa từng có trong lịch sử, vượt mức đỉnh năm 2021 (huy động vốn mới bằng tiền khoảng 101 ngàn tỷ đồng).

phan-03_bieu-do.png

Thực tế, chỉ tính trong 10 tháng đầu năm 2025, con số này đã đạt gần 104 nghìn tỷ đồng và nếu tính cả hai thương vụ IPO lớn từ VPS và VPBank Securities sắp diễn ra, chúng tôi ước tính sẽ đạt tối thiểu 130 ngàn tỷ đồng vốn cổ phần mới được huy động chỉ qua kênh cổ phiếu, chưa kể huy động trái phiếu chào bán ra công chúng hoặc trái phiếu riêng lẻ phát hành bởi các công ty đại chúng. Đây là tín hiệu rất tích cực, phản ánh rõ vai trò ngày càng quan trọng của TTCKVN trong việc dẫn vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế.

w_19.png

Do đó, theo tôi thì Việt Nam cần hướng đến sự cân bằng, vừa thu hút dòng vốn ngoại, vừa phát triển nền tảng bền vững. Việc đa dạng hóa nguồn vốn là chìa khóa, từ quỹ đầu cơ, quỹ danh mục đến quỹ tương hỗ, quỹ hưu trí hay quỹ quốc gia - những dòng vốn ổn định, đầu tư theo cơ bản, giúp thị trường ít biến động hơn.

w_22.png

Như ông nhận định, chất lượng hàng hóa là “xương sống” của thị trường vốn. Vậy đâu là yếu tố cốt lõi cần cải thiện để Việt Nam không chỉ có thêm “hàng mới” mà còn có “hàng tốt” đủ chuẩn thu hút dòng vốn tổ chức quốc tế?

Ông Nguyễn Quang Thuân: Về tổng thể, chất lượng các doanh nghiệp niêm yết hiện nay đã được cải thiện đáng kể, song quy mô lớn chưa chắc đã “ngon” mà còn cần phải có nền tảng hoạt động kinh doanh vững chắc, rủi ro tài chính ở mức hợp lý, tỷ lệ free float đủ lớn cùng dư địa tăng trưởng rõ ràng để tạo ra câu chuyện đầu tư hấp dẫn cho thị trường.

So với các quốc gia trong khu vực như Indonesia, Philippines, Malaysia, Việt Nam là điểm sáng nhờ ba yếu tố chính: định giá hấp dẫn, tiềm năng tăng trưởng cao và cơ hội IPO mới đang sôi động trở lại. Mặc dù số lượng IPO những năm qua còn khiêm tốn, song hiện làn sóng IPO hiện đang quay lại mạnh mẽ, đặc biệt từ các doanh nghiệp trong lĩnh vực tài chính – chứng khoán, nông nghiệp, bán lẻ, y tế và công nghệ. Đây chính là nguồn cung hàng hóa chất lượng mà thị trường và nhà đầu tư nước ngoài đang mong đợi.

Nhưng điều quan trọng là các thương vụ IPO cần thực sự hấp dẫn về chất lượng, có định giá hợp lý hơn và duy trì hiệu quả hoạt động và dự báo tăng trưởng như công bố sau niêm yết. Bởi nếu các thương vụ IPO diễn ra rầm rộ với định giá cao nhưng sau niêm yết nhà đầu tư lại thua lỗ, niềm tin và sự quan tâm của thị trường đối với kênh huy động vốn này sẽ bị suy giảm đáng kể.

w_24.png

Để nâng cao chất lượng hàng hóa, minh bạch thông tin doanh nghiệp đã được cải thiện đáng kể và thủ tục niêm yết của doanh nghiệp có kế hoạch IPO cũng dự kiến được rút ngắn. Tuy vậy, theo tôi cần khai thông nguồn vốn đầu tư chính từ các quỹ đầu tư nội địa, không chỉ quỹ đầu tư tập trung vào cổ phiếu mà cả quỹ trái phiếu, quỹ nợ và quỹ tiền tệ và qua đó phát triển ngành quản lý quỹ.

Điều này không chỉ giúp tăng quy mô ngành quản lý quỹ, giảm tỷ trọng tham gia trực tiếp của nhà đầu tư cá nhân để giảm sự biến động cao của thị trường mà còn góp phần huy động nguồn vốn dài hạn trên thị trường vốn và giảm sự lệ thuộc vào vốn tín dụng ngân hàng. Do đó, theo tôi, Việt Nam cần thêm các công ty quản lý quỹ và các quỹ thành viên được cấp phép với đối tượng mở ra cho các tổ chức chuyên nghiệp, chuyên gia giàu kinh nghiệm, có uy tín cao để tham gia cùng phát triển và mở rộng ngành quản lý quỹ tại Việt Nam.

Là đơn vị kinh doanh phân tích thông tin độc lập, FiinGroup cũng đang tích cực tham gia vào tiến trình này. Chúng tôi đang phối hợp cùng Tổng Công ty Lưu ký và Bù trừ Chứng khoán (VSDC) triển khai chương trình xếp hạng quỹ đầu tư tại Việt Nam (Fund Ranking) nhằm hỗ trợ nhà đầu tư đại chúng đánh giá đúng năng lực và khả năng tạo ra lợi nhuận của các quỹ và qua đó góp phần hỗ trợ cho sự phát triển minh bạch và bền vững của ngành quản lý quỹ tại Việt Nam.

w_26.png

Hiện Việt Nam có khoảng 70 quỹ thành viên thuộc hơn 40 đơn vị quản lý, song mỗi quỹ có mục tiêu, chiến lược và khẩu vị rủi ro khác nhau, khiến nhà đầu tư cá nhân khó có thể lựa chọn chứng chỉ quỹ phù hợp. Thực tế, một quỹ cân bằng hoặc quỹ trái phiếu không thể so sánh hiệu quả trực tiếp với quỹ cổ phiếu, đặc biệt là quỹ tập trung vào cổ phiếu nhỏ hoặc trung bình và đây cũng là thông lệ trên các thị trường quốc tế.

Dù mới trong giai đoạn triển khai thí điểm, nhưng Fund Ranking đã nhận được sự quan tâm và tham gia của một số quỹ quốc tế tập trung phân bổ vào thị trường Việt Nam. Đây là bước quan trọng góp phần cho việc tăng số lượng nhà đầu tư tham gia đầu tư vào chứng chỉ quỹ mở, từ khoảng 230 ngàn người lên mục tiêu 2,5 triệu nhà đầu tư theo Quyết định 3168 của Bộ Tài chính.

w_28.png

Xếp hạng tín nhiệm được coi là “chìa khoá mềm” để phát triển thị trường vốn, nhưng ở Việt Nam vẫn mang tính hình thức, ít doanh nghiệp thực sự quan tâm. Theo ông, làm sao để xếp hạng tín nhiệm phát huy đầy đủ chức năng của mình?

Ông Nguyễn Quang Thuân: Xếp hạng tín nhiệm rất quan trọng đối với thị trường vốn, phản ánh mức độ minh bạch và là căn cứ để nhà đầu tư định chế trong nước và quốc tế, đặc biệt là các quỹ nợ xem xét đầu tư, định giá rủi ro, tính toán mức vốn và thực hiện giám sát sau đầu tư và phân bổ danh mục.

Thực tế, các quỹ nợ thường có quy mô lớn hơn rất nhiều quỹ cổ phiếu, song để thu hút họ tham gia thì nút thắt của thị trường vốn Việt Nam là “ít hàng quá”. Hiện mỗi năm có khoảng 300-400 đợt phát hành trái phiếu doanh nghiệp, nhưng phần lớn là phát hành riêng lẻ với cấu trúc giao dịch “deal by deal”. Điều này chỉ phù hợp với quỹ quy mô nhỏ hoặc có tỷ trọng nhỏ phân bổ vào thị trường nợ và chưa thể thực hiện đầu tư theo danh mục đúng nghĩa.

Chúng tôi có làm việc với một số quỹ nợ quốc tế quy mô lên tới cả trăm đến hàng nghìn tỷ USD, nhưng họ chỉ có vài chục nhân sự. Việc của họ là sử dụng phân bổ theo chuẩn của thị trường, cụ thể là kết quả xếp hạng tín nhiệm. Họ không thể thẩm định từng dự án như cách mà các deal trái phiếu ở Việt Nam hiện vẫn làm, vốn đòi hỏi thẩm định chi tiết mọi giao dịch và cấu trúc phi chuẩn hóa.

Điểm tích cực là một số quỹ bao hiểm và ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay đã bắt đầu dùng kết quả xếp hạng tín nhiệm của chúng tôi để sàng lọc trái phiếu, đầu tư và tham khảo định giá lãi suất. Những trái phiếu có xếp hạng dưới BB bởi FiinRatings hoặc các tổ chức được Bộ Tài chính cấp phép thường họ không quan tâm hoặc không thuộc diện được xem xét, đánh giá để trình lên hội đồng đầu tư/ hội đồng tín dụng.

Hiện tại, độ phủ của xếp hạng tín nhiệm tại Việt Nam còn cực kỳ thấp. Tổng số doanh nghiệp được xếp hạng nội địa chưa tới 100, chiếm chưa tới 0,7% trong hơn 7.000 doanh nghiệp có trái phiếu đang lưu hành. Với các sản phẩm trái phiếu cụ thể, số lượng được xếp hạng còn “đếm trên đầu ngón tay”. Số lượng các doanh nghiệp được xếp hạng tín nhiệm theo hệ thống thang điểm quốc tế cũng chỉ dưới 50 doanh nghiệp và mức độ phủ thấp này sẽ cần thời gian để đáp ứng kỳ vọng của các quỹ nợ trong và ngoài nước.

w_30.png

Xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp được xem là bước đi đầu tiên để hình thành một hệ sinh thái tài chính minh bạch, hướng tới mục tiêu cuối cùng là nâng xếp hạng tín nhiệm quốc gia. Vì sao việc nâng hạng tín nhiệm quốc gia lại trở nên cấp thiết trong giai đoạn hiện nay, và theo ông đâu là những yếu tố then chốt giúp Việt Nam đạt được mục tiêu này?

Ông Nguyễn Quang Thuân: Trước nhu cầu vốn đầu tư khổng lồ mà hệ thống ngân hàng không thể đáp ứng, việc đẩy mạnh độ phủ xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp trên thị trường vốn và nâng hạng tín nhiệm quốc gia cũng như việc hoàn thiện hạ tầng thị trường nợ theo tôi là rất cấp bách. Việt Nam cần đa dạng hóa nguồn vốn, huy động thêm vốn nước ngoài và vốn phi ngân hàng từ công ty bảo hiểm, trái phiếu công trình, trái phiếu hạ tầng…

Các dự án lớn như đường sắt cao tốc, năng lượng tái tạo hay năng lượng hạt nhân cũng nên được thiết kế theo mô hình tài chính dự án (project finance), vì ngân hàng hiện có bộ đệm vốn quá mỏng để có thể đáp ứng được nhu cầu vốn dài hạn này. Thực tế nếu không có bảo lãnh của Chính phủ hoặc các quỹ bảo lãnh quốc tế có xếp hạng tín nhiệm cao, doanh nghiệp tư nhân Việt Nam gần như không thể phát hành công cụ nợ như trái phiếu doanh nghiệp hoặc vay vốn với kỳ hạn 20-25 năm.

Xếp hạng tín nhiệm quốc gia là yếu tố mấu chốt khi doanh nghiệp Việt Nam huy động vốn trên thị trường quốc tế, vì xếp hạng doanh nghiệp thường bị giới hạn bởi mức xếp hạng quốc gia. Hiện mức xếp hạng quốc gia của Việt Nam (BB+ theo S&P) thấp hơn một số nước có tính cạnh tranh với Việt Nam như Malaysia, Indonesia, Thái Lan, Philippines dẫn đến chi phí vốn quốc tế cao hơn đáng kể.

Ngay cả các doanh nghiệp hàng đầu Việt Nam phải vay USD với lãi suất cơ bản khoảng 4,2%/năm (SOFR) cộng thêm 1–5% hoặc hơn tùy theo xếp hạng tín nhiệm, trong khi các doanh nghiệp tương đồng ở các nước khác thường có chi phí thấp hơn. Điều này một phần do mức độ rủi ro riêng của mỗi doanh nghiệp nhưng phần lớn cũng do yếu tố trần xếp hạng tín nhiệm quốc gia của chúng ta còn thấp.

w_32.png

Để đạt mục tiêu nâng hạng quốc gia, điều quan trọng nhất là Việt Nam không chỉ củng cố ổn định nền tảng vĩ mô, kiểm soát nợ công bằng ngoại tệ, mà còn phải đảm bảo sự ổn định của hệ thống ngân hàng, cải thiện cán cân thanh toán, đặc biệt là dự trữ ngoại tệ và tăng cường minh bạch thông tin ra thị trường quốc tế.

Yếu tố môi trường lãi suất toàn cầu hiện có triển vọng thuận lợi, đặc biệt từ phía FED, khi có kế hoạch tiếp tục cắt giảm lãi suất. Theo đánh giá của FiinRatings, mặt bằng lãi suất FED có thể giảm xuống dưới 3%, hi vọng là từ nửa cuối 2026, thì điều này tạo cơ hội thuận lợi để nhiều doanh nghiệp Việt Nam hiện thực hóa chiến lược huy động vốn quốc tế. Hiện chúng tôi biết một số doanh nghiệp lớn có kế hoạch huy động vốn nợ dài hạn hoặc phát hành trái phiếu bằng ngoại tệ ra thị trường quốc tế, nhưng với mặt bằng lãi suất FED hiện nay họ chưa thể giải bài toán chi phí vốn để kinh doanh có hiệu quả tại thị trường Việt Nam.

Vì vậy, tôi cho rằng năm 2026 sẽ là “thời cơ vàng” để Việt Nam chuyển mình mạnh mẽ, không chỉ trong quá trình nâng hạng TTCK theo FTSE Russel và MSCI, mà còn trong việc cải thiện toàn diện cả quy mô lẫn chất lượng thị trường vốn, đồng thời có những bước tiến tích cực trong nâng xếp hạng tín nhiệm quốc gia. Khi các yếu tố này vận hành đồng bộ, thị trường vốn Việt Nam sẽ trở thành chìa khóa quan trọng để doanh nghiệp và Chính phủ giải bài toán huy động vốn, đồng thời tạo nền tảng vững chắc để thị trường thực sự “cất cánh” trong kỷ nguyên mới của đất nước.

POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO