Lao động tại Việt Nam - Giá rẻ sẽ không còn là lợi thế mà tay nghề sẽ quyết định

Theo HSBC Việt Nam | 20:18 06/11/2022

HSBC Việt Nam vừa có báo cáo "Nâng cấp lực lượng lao động" với nhận định bước tiếp theo của thị trường lao động Việt Nam là nâng cao tay nghề cho công nhân khi mà trong năm 2021chỉ 9% nghề nghiệp ở Việt Nam có thể được xếp vào dạng tay nghề cao, con số này ở Singapore là 65%.

Lao động tại Việt Nam - Giá rẻ sẽ không còn là lợi thế mà tay nghề sẽ quyết định
Ảnh minh hoạ.

Theo Báo cáo của HSBC, Việt Nam đặt mục tiêu có thu nhập thuộc nhóm trên của các nước thu nhập trung bình của thế giới và nâng GDP bình quân đầu người lên khoảng 7.500 USD. Những gián đoạn do COVID-19 giờ đã nằm lại phía sau đối với Việt Nam nhưng nhu cầu toàn cầu đối với hàng hóa lại sụt giảm, đây là dịp thích hợp để xem lại kế hoạch cơ cấu nhằm cải thiện năng suất lao động. 

Giáo dục là vấn đề chính yếu

Các chuyên gia của HSBC nhấn mạnh, Việt Nam đã chuyển dịch đáng kể từ một nền kinh tế dựa trên nông nghiệp thành một trung tâm sản xuất nổi bật. Tuy nhiên, để tiếp tục hỗ trợ đà tăng trưởng kinh tế, chính phủ cần cân nhắc: 1) giảm chi phí cơ hội đối với giáo dục phổ thông trung học; 2) mở rộng nguồn vốn đầu tư cho giáo dục phổ thông trung học; và 3) nâng cao chất lượng đào tạo nghề.

Tháng 10 ghi nhận suy giảm nhẹ

Quý 4/2022 đã khởi đầu không mấy mạnh mẽ, điều đó không gây ngạc nhiên bởi bối cảnh thế giới chậm lại và độ mở về xuất khẩu của Việt Nam. Điều đáng ngạc nhiên là sự thay đổi của hoạt động trong nước. Rủi ro cho nền kinh tế vẫn còn tiếp tục duy trì và NHNN đã có động thái mạnh mẽ trong hoạt động điều hành để kiểm soát biến động tiền tệ và áp lực lạm phát.

bang-1.png

Phù hợp với những dự báo của HSBC, NHNN đã tăng lãi suất tái cấp vốn 100 điểm cơ sở lên 6,0% có hiệu lực từ 25/10. Chúng tôi dự báo NHNN sẽ tăng thêm 50 điểm cơ sở trong Quý 1 và Quý 2 năm 2023, nâng lãi suất điều hành lên 7,0% vào giữa năm 2023.

Biểu đồ 1: Lương trên đà tăng mạnh
Biểu đồ 2: Việc làm tiếp tục phục hồi


Chặng đường phía trước để phục hồi thị trường lao động

Sau khi Việt Nam mở cửa trở lại từ tháng 3, thị trường lao động đã phục hồi mạnh mẽ. Tỷ lệ thất nghiệp Quý 3 ở mức 2,28%, tỷ lệ thấp chưa từng thấy kể từ khi đại dịch COVID-19 xảy ra (Biểu đồ 1). Lực lượng lao động đạt 51,9 triệu người và tỷ lệ tham gia lực lượng lao động đạt 68,7% tính đến cuối Quý 3/2022, tiếp nối đà tăng trưởng kể từ thời điểm giãn cách xã hội trong Quý 3/2021.

Các hoạt động kinh tế phục hồi trên diện rộng ở Việt Nam đã góp phần cải thiện tình hình thị trường lao động và cho thấy dấu hiệu nền kinh tế trong nước đang trên đà lấy lại phong độ toàn diện. Cụ thể, nhu cầu sử dụng lao động trong các ngành liên quan đến dịch vụ đã hồi sinh đáng kể (Biểu đồ 2), Tổng cục Thống kê ghi nhận khu vực này đã tiếp nhận lượng lao động bình quân mới cao nhất. Nhu cầu lao động tăng cao cũng được phản ánh trong dữ liệu về thu nhập, trong đó, thu nhập bình quân tháng tiếp tục tăng. Theo ước tính của Ngân hàng Thế giới, lao động đang chuyển dịch từ khu vực nông nghiệp trở lại với các công việc phi nông nghiệp và từ việc làm phi chính thức sang chính thức khi các hoạt động ở thành thị sôi động trở lại.

Vậy tình hình sắp tới thế nào? Kinh tế Việt Nam tiếp tục chứng kiến một sự chuyển dịch ngoạn mục. Như thể hiện trong Biểu đồ 3, Việt Nam đã trải qua một chặng đường dài để thay đổi cơ cấu thị trường lao động, chuyển lao động tham gia ngành nông nghiệp sang ngành sản xuất giá trị gia tăng cao hơn và khu vực dịch vụ. Thị trường lao động cũng hưởng lợi nhờ “dân số vàng”, với tỷ lệ dân số phụ thuộc luôn dưới 50% kể từ năm 2006.

Biểu đồ 3: Những xu hướng ngầm cho thấy tiến độ đều đặn trong phát triển nguồn nhân lực:

bd-3.png

Biểu đồ 4: Việt Nam đã làm tốt việc nâng cao các tiêu chuẩn giáo dục phổ thông:

bd-4.png

Trong ngành sản xuất, Việt Nam chủ yếu thu hút các công việc thủ công như lắp ráp linh kiện, xuất phát từ việc tận dụng lợi thế cạnh tranh về lương. Theo Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản (Japan External Trade Organization - JETRO), lương công nhân sản xuất do các công ty Nhật Bản trả ở Việt Nam chỉ bằng hơn một nửa so với Malaysia và Thái Lan. Một yếu tố khác là mức độ phổ cập giáo dục phổ thông cho người dân Việt Nam ở mức cao nhờ những cải cách giáo dục thành công của chính phủ trong giai đoạn những năm 2000 và những năm 2010.

Để Việt Nam duy trì đà tăng trưởng, phát triển thêm lợi thế cạnh tranh cho lực lượng lao động là một việc quan trọng. Cải thiện giáo dục và đầu tư thêm cho nguồn nhân lực đã được nhấn mạnh là một trong những trụ cột trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của chính phủ cho giai đoạn 2021-2030.

Sau khi Việt Nam vượt qua đại dịch COVID-19, chính phủ có thể đánh giá lại những nỗ lực nhằm đầu tư cho nguồn nhân lực để cải thiện năng suất lao động vốn là vấn đề mang tính cơ bản, đặc biệt trong bối cảnh dân số bắt đầu già đi. Mặc dù đã đạt được tỷ lệ phổ cập giáo dục cơ sở, Việt Nam vẫn có thể làm nhiều hơn nữa để tăng tỷ lệ phổ cập giáo dục phổ thông trung học. Trong số các quốc gia thuộc nhóm ASEAN-6, tỷ lệ đã qua đào tạo đại học ở Việt Nam (cử nhân và sau đại học) trong độ tuổi từ 25 trở lên ước tính ở mức 10% vào năm 2019, thấp hơn so với mức 12% của Malaysia và 16% của Thái Lan (Biểu đồ 4).

Một trong những nguyên nhân có thể kể tới là số lượng tốt nghiệp cấp ba. Nhưng cũng có quan điểm cho rằng các công việc đòi hỏi tay nghề cao tương ứng cũng còn thiếu tại thị trường Việt Nam, dẫn tới vòng lặp tay nghề thấp và lợi ích liên quan tới lương tương ứng từ giáo dục cấp ba. Ngay thời điểm hiện tại, các công việc không đòi hỏi tay nghề đang chiếm một phần tư lực lượng lao động của Việt Nam (Biểu đồ 5).

Tổ chức Lao động Thế giới (ILO) đã ước tính rằng chỉ 9% nghề nghiệp ở Việt Nam có thể được xếp vào dạng tay nghề cao trong năm 2021, so với 65% ở Singapore. Vì vậy, giảm chi phí cơ hội cao của giáo dục phổ thông trung học có thể là một cân nhắc hiệu quả cho chính phủ nhằm đưa ra hành động.

Biểu đồ 5: Lao động không tay nghề hiện nay chiếm khoảng một phần tư tổng số lao động có việc làm:

bd5.png

Khi xem xét kỹ hơn nguồn cung của giáo dục, Ngân hàng Thế giới ước tính chi phí giáo dục công chiếm trung bình 5% GDP trong giai đoạn 2004-2019. Nếu chỉ tính riêng giáo dục phổ thông trung học, chi tiêu cho giáo dục phổ thông trung học ở mức 0,6% GDP năm 2019, thấp hơn mức 0,8% ở Malaysia năm 2020. Trong bối cảnh chi tiêu cho giáo dục phổ thông trung học ở Việt Nam chủ yếu là từ ngân sách nhà nước, chiếm khoảng 80%, việc tăng nguồn vốn đầu tư vào lĩnh vực này là một bước đi tích cực nhằm nâng cấp lực lượng lao động.

Bên cạnh tăng vốn đầu tư, cơ cấu đào tạo nghề cũng còn nhiều không gian để cải thiện. Những thông tin về mở rộng sản xuất giá trị gia tăng cao hơn vẽ nên một bức tranh tích cực nhưng các doanh nghiệp hiện tại lại gặp khó khăn trong tuyển dụng do kỹ năng không phù hợp. Một khảo sát dành cho doanh nghiệp do Ngân hàng Thế giới tiến hành trong năm 2019 phát hiện rằng 68% doanh nghiệp Việt Nam gặp khó khăn trong tuyển dụng lao động với những kỹ năng chuyên môn đòi hỏi tương ứng với công việc. Nhận thức được trở ngại này, các cơ quan chức năng đã chủ động triển khai nhiều biện pháp.

Việt  Nam đặt mục tiêu nâng cao chất lượng đào tạo nghề bằng cách hiện đại hóa chương trình và thiết bị giảng dạy, phấn đấu đến năm 2025 có 80% lao động đào tạo nghề thông thạo các kỹ năng công nghệ thông tin.

Mặc dù vậy, lực lượng lao động Việt Nam hiện tại ngày càng tiếp xúc với các kỹ năng và kiến thức giá trị gia tăng cao hơn. Có nhiều dấu hiệu cho thấy gia tăng về lĩnh vực sản xuất đang thể đi vào những ngành tạo ra các sản phẩm phức tạp hơn.

Foxconn, một nhà cung cấp lớn của Apple, gần đây đã đầu tư thêm 300 triệu USD nhằm mở rộng hoạt động ở Việt Nam. Dự định sản xuất thêm sản phẩm công nghệ tân tiến như đồng hồ Apple của họ là những dấu hiệu cho thấy lực lượng lao động Việt Nam đang tiến dần lên trong chuỗi giá trị sản xuất.

Một tên tuổi lớn trong ngành phần mềm giá trị gia tăng cao, Synopsys, cũng vừa công bố sẽ mở rộng hoạt động thiết kế bộ vi xử lý và quan trọng hơn là chuyển một phần chương trình đào tạo kỹ sư sang Việt Nam. Với quy mô lớn hiện tại của Samsung, việc có thêm doanh nghiệp lớn tham gia vào thị trường là một tin tốt với Việt Nam, tạo điều kiện cho việc chuyển giao kiến thức trở nên đa dạng hơn.

Dòng FDI ổn định vào Việt Nam cũng góp phần duy trì việc làm ổn định, Tổng cục Thống kê ghi nhận tỷ lệ lao động có việc làm chính thức tăng hơn so với phi chính thức.

Tựu chung lại, những bước phát triển của thị trường lao động Việt Nam tiếp tục duy trì tích cực. Sự hỗ trợ, phục hồi và cải thiệt của thị trường lao động rất đáng khích lệ nhưng những kết quả này có được chủ yếu là do phục hồi kinh tế sau đại dịch. Về lâu dài, trọng tâm cần đặt vào những biện pháp khác nhằm nâng cao tay nghề cho lực lượng lao động Việt Nam nhằm thúc đẩy năng suất và duy trì đà tăng trưởng.

TÓM LƯỢC TÌNH HÌNH THÁNG 10 

Tiếp tục chuyển dịch từ bên ngoài vào trong nước

Nhu cầu trong nước vững vàng tiếp tục là một yếu tố thuận lợi cho Việt Nam (Biểu đồ 6). Mặc dù vậy, tháng 10 là tháng đầu tiên có mức tăng trưởng một con số kể từ khi mở cửa biên giới trở lại đầu năm nay, tăng 9% so với cùng kỳ năm trước và so với những mức tăng trưởng hai con số trước đây.

Tăng trưởng giảm nhẹ diễn ra ở tất cả các lĩnh vực. Du lịch, vốn luôn là ngành hỗ trợ phục hồi kinh tế, đã bắt đầu cho thấy dấu hiệu chững lại xét về số lượt khách hàng tháng. Với 484.000 khách quốc tế ghi nhận trong tháng 10, số lượng khách quốc tế hiện tại chưa tới nửa mục tiêu 5 triệu do các cơ quan chức năng đặt ra cho năm 2022.

Riêng lượng khách từ châu Âu và Hàn Quốc vẫn duy trì mạnh mẽ, đóng góp 40% tổng lượt khách đến Việt Nam (Biểu đồ 7)

Biểu đồ 6: Doanh thu bán lẻ vẫn mạnh mẽ
Biểu đồ 7: Đà tăng trưởng đều đặn về lượt khách hàng tháng đã chững lại


Với các yếu tố bên ngoài, trở ngại cho thương mại vẫn tiếp tục gia tăng. Chỉ số sản xuất PMI tháng 10 đạt 50,6, vẫn trong vùng mở rộng nhưng cho thấy đà tăng trưởng giảm nhẹ trên mọi phương diện (Biểu đồ 8). Bất chấp tình hình cung cấp có cải thiện liên tục, nhu cầu toàn cầu sụt giảm đã ảnh hưởng lên tăng trưởng đơn hàng mới.

Chỉ số sản xuất công nghiệp (IP) cũng có dấu hiệu giảm đà tăng trưởng, chỉ số IP sản xuất tăng 20,6% so với cùng kỳ năm trước (Biểu đồ 9)

Biểu đồ 8: PMI tháng 10 phản ánh đà tăng trưởng giảm nhẹ
Biểu đồ 9: Tăng trưởng IP giảm cùng với những trở ngại thương mại


Theo đà của sản xuất công nghiệp, xuất khẩu của Việt Nam khởi đầu Quý 4/2022 khá yếu, tháng 10 chỉ tăng trưởng 4,5% so với cùng kỳ năm ngoái (HSBC: 6,1%, Bbg: 9,0%). Bên cạnh nhu cầu hàng điện tử tiêu dùng hạ nhiệt, ngành dệt may/gia dày và máy móc – vốn là trụ cột xuất khẩu mạnh mẽ trong Quý 3/2022 cũng đã bắt đầu cho thấy dấu hiệu chững lại (Biểu đồ 10). Bất chấp mùa mua sắm cuối năm đang đến gần, nhu cầu đặt hàng điện tử và may mặc đang suy yếu khi những thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam ở phương Tây đang phải đối mặt với tình hình lạm phát cao và mức tồn kho lớn. Tình hình thương mại yếu đi cũng được các cơ quan chức năng Việt Nam ghi nhận, cụ thể, các quan chức thuộc Bộ Công thương đã nhận định về những khó khăn bên ngoài trong những tháng tới.

Biểu đồ 10: Khi hiệu ứng cơ sở của Quý 3/2021 giảm dần, dự báo tình hình xuất khẩu của tất cả các ngành hàng đều có thách thức:

10.png

Trong khi đó, tăng trưởng nhập khẩu tháng 10 ở mức 7,1% so với cùng kỳ năm trước (HSBC: 10,7%, Bbg: 9,0%), tương đương mức 7,3% của Quý 3/2022. Năng lượng tiếp tục đóp góp phần lớn vào tăng trưởng nhập khẩu, trong đó, giá năng lượng duy trì. Mặt khác, nhập khẩu điện tử tiếp tục phản ánh tình hình tương tự dữ liệu xuất khẩu. Lượng hàng nhập khẩu cho điện thoại và linh kiện thay thế ghi nhận đợt sụt giảm thứ ba liên tiếp, giảm 3% trong tháng 10 so với cùng kỳ năm trước. Nhu cầu trong mảng điện thoại thông minh cũng thu hẹp lại càng khiến viễn cảnh về một trong những mảng xuất khẩu trọng yếu của Việt Nam thêm phức tạp, cùng với việc báo đăng tin Apple cắt giảm sản xuất mẫu iPhone tầm trung mới. Bất chấp tình hình tăng trưởng xuất khẩu tiếp tục giảm, cán cân thương mại duy trì như tháng 8 và tháng 9, ghi nhận thặng dư trong tháng 10. Mặc dù vậy, chúng tôi dự báo mức thặng dư thương mại sẽ không đủ để cân bằng lại tài khoản vãng lai cho năm nay và kỳ vọng năm thứ hai liên tiếp ghi nhận thâm hụt tài khoản vãng lai.

Kỳ họp Quốc hội thể hiện hỗ trợ chắc chắn đối với nền kinh tế trong nước

Bất chấp viễn cảnh bên ngoài kém khởi sắc cho những tháng cuối năm và xa hơn, tại phiên họp Quốc hội đang diễn ra, chính phủ đã nhắc đến tăng trưởng GDP trong năm 2022 được kỳ vọng sẽ đạt 8%, vượt mục tiêu chính thức 6,5%. Mục tiêu cho năm tới cũng mạnh mẽ không kém so với các nước châu Á với mục tiêu GDP 6,5% và tỷ lệ lạm phát ở mức 4,5% trong năm 2023.

Về mặt tài khóa, thu ngân sách cho năm nay được điều chỉnh tăng 202 nghìn tỷ đồng lên 1.600 tỷ đồng nhờ nguồn thu từ thuế xuất nhập khẩu và dầu thô tăng lên. Với mức chi dự kiến sẽ ở mức 2.000 tỷ đồng, thâm hụt ngân sách năm 2022 do chính phủ ước tính sẽ ở mức khoảng 4,5% GDP. Với áp lực lương tăng và phân bổ ngân sách cho chương trình phục hồi kinh tế xã hội giai đoạn 2022-2023, thâm hụt ngân sách năm 2023 dự kiến ở mức cao là 455,5 nghìn tỷ đồng.

Biểu đồ 11: Lạm phát thực phẩm tiếp tục tăng lên
Biểu đồ 12: Giá xăng vẫn thấp nhưng đang bắt đầu có xu hướng tăng


Lạm phát vượt mức 4%

Lạm phát toàn phần tháng 10 tăng 4,3% so với cùng kỳ năm trước, vượt mức 4% do Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đặt ra và phù hợp với dự báo của HSBC (HSBC: 4,3%, Bbg: 4,4%). Như trong Biểu đồ 11, giá thực phẩm tiếp tục tăng, tăng 5% so với cùng kỳ năm trước và phần nào phản ánh tác động của một số cơn bão và tình trạng mất mùa. Nhà cửa và xây dựng cũng tăng đáng kể, tăng 5,4% so với cùng kỳ năm trước và thể hiện xu hướng tăng trong nhu cầu thuê, dịch vụ sửa chữ và vật liệu nhà cửa.

Trong khi chi phí vận tải không đóng góp nhiều vào tăng trưởng lạm phát toàn phần so với cùng kỳ năm trước, một phần do giá xăng vẫn ở mức thấp hơn từ đầu năm nay, quan sát dữ liệu liên tục cho thấy giá cũng bắt đầu tăng nhẹ (Biểu đồ 12).

Báo chí trong nước cũng đã đăng tin các trạm xăng gặp khó khăn trong việc nhập xăng, Bộ Công thương đã yêu cầu hai nhà máy lọc dầu, Dung Quất và Nghi Sơn, phải tăng sản lượng để ứng phó với tình hình này. Bộ trưởng Bộ Công thương lý giải tình hình này là do sự biến động của tỷ giá hối đoái, gây khó khăn cho hoạt động của các công ty kinh doanh xăng dầu.

Như vậy, những sự kiện này nhấn mạnh rủi ro về tăng giá và chúng tôi kỳ vọng lạm phát sẽ còn vượt mức 4% trong vài quý tới.

Biểu đồ 13: Tháng 10 chứng kiến sự biến động trong tỷ giá USD-VND…
Biểu đồ 14: … góp phần khiến NHNN phải tăng lãi suất liên tiếp 100 điểm cơ sở


NHNNHNN liên tiếp tăng lãi suất

Trong thông báo của NHNN, cơ quan này đã nhắc đến những đợt tăng lãi suất của Cục dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) và việc đồng đô-la mạnh lên, nhấn mạnh áp lực không ngừng đối các ngân hàng trung ương châu Á. Đầu tháng này, NHNN đã tăng biên độ tỷ giá từ ±3% lên ±5%, giảm bớt áp lực lên việc sử dụng dự trữ ngoại hối, vốn đã giảm 16% tính tới tháng 8 kể từ đỉnh tháng 1/2022. Trong bối cảnh các rủi ro gia tăng, NHNN đã có các động thái chủ động nhằm duy trì ổn định kinh tế vĩ mô và xoa dịu lạm phát.

NHNN đã đưa ra nhiều động thái mạnh mẽ trong một khoảng thời gian ngắn, làm dấy lên dư luận về khả năng tăng biên độ tỷ giá lần nữa cho thấy chu kỳ tăng lãi suất vẫn còn chưa kết thúc. Chúng tôi dự báo NHNN sẽ nâng lãi suất tái cấp vốn thêm 50 điểm cơ sở ở cả Quý 1 và 2 năm 2023, nâng lãi suất điều hành lên 7,0% vào giữa năm 2023 (bảng 2).

Dự báo của HSBC

Bài liên quan

(0) Bình luận
Lao động tại Việt Nam - Giá rẻ sẽ không còn là lợi thế mà tay nghề sẽ quyết định
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO